Có một lần tôi đang “vật lộn” hướng dẫn Lục Tự Khí Công phục hồi vận động cho mấy người bệnh bị bán thân bất toại di chứng của tai biến mạch máu não. Hôm đó chùa Viên Giác có rất đông thiện nam tín nữ khắp châu Âu tụ hội về bởi vì dịp đó có Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 ghé lại thăm chùa Viên Giác mấy ngày.
Trong khi tôi đang “quần thảo râm ran” với người bệnh trong căn phòng nhỏ mà Thầy Trụ Trì dành cho tôi. Nào là Hô nào Ha nào Hi..Suy loạn xạ ngầu cả lên thì có một người ghé vào xem. Ông lặng lẽ chăm chú nhìn tôi cực nhọc hướng dẫn cho người bệnh bại liệt cách thu nạp hô hấp và tập hét các Tự Quyết trong Lục Tự Khí Công nhằm mục đích dùng chấn động âm thanh nội tại để phục hồi chức năng điều khiển vận động của não bộ bị tổn thương do tai biến mạch máu não đưa lại (đột quị). Nhìn một hồi lâu rồi ông nhẹ nhàng nhìn tôi ân cần nói: – “chưa bơi được mà đã muốn vượt vũ môn khó lắm thay..”. Thoáng sững sờ trước câu nói có âm lực chấn động tâm thức rất dữ dội tôi lặng người đi một hồi lâu mới tĩnh trí lại được. Khi bình tĩnh trở lại được thì người đàn ông đó đã rời căn phòng và đi lẫn vào trong đám đông thiện nam tín nữ trong sân chùa.
Tan buổi trị bệnh tôi tìm gặp anh bạn vong niên giáo hữu Thị Chơn NND. Hồi đó anh đang phụ trách tổng hội Thanh Niên của Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất Hải Ngoại biên tập viên của báo Viên Giác. Nghe tôi mô tả người đàn ông đó. Thị Chơn NND mỉm cười và nói: “- rứa là chú có duyên lắm mới được thầy Khổ Toại để ý đến may hỉ may hỉ..”. Anh Thị Chơn dẫn tôi đi gặp thầy Khổ Toại gặp lúc thầy Khổ Toại đang luận chuyện với một vị Lạt Ma Tây Tạng vị này là bác sĩ riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Thị Chơn giới thiệu tôi với nhị vị Đại Sư ấy. Sau cái duyên hội ngộ ấy Thầy Khổ Toại truyền lại cho tôi Lục Tự Quyền. Một môn quyền thuật dùng sự nhu chuyễn của hay bàn tay để dẫn ý trợ khí cho âm lực của Lục Tự Khí Công.
Lục Tự Khí Công vốn là một môn Tĩnh Công dùng chấn động nội lực của âm thanh để điều hòa khí huyết của cơ thể
Lục Tự Khí Công tuy chỉ có sáu tự quyết đơn giản: Hư-Ha-Hô-Hi-Suy-Hu biểu tượng của ngũ hành: Mộc- Hỏa-Thổ-Kim-Thủy ứng với các tạng phủ: Can Đởm- Tim Mạch Tiểu trường- Tỳ Vị- Phế Đại trường- Thận Bàng quang và Tam tiêu. Nhưng cách phát âm bằng sự hô hấp đan điền ở tư thế tĩnh rất khó áp dụng cho hành giả có căn cơ tập luyện khí công thấp.
Lục Tự Quyền khắc phục được nhược điểm đó dùng sự chuyển động nhu nhuyễn của hai bàn tay dẫn ý và lan truyền chấn động của âm lực đến vùng cần phải điều hòa và chữa trị. Không những làm cho Lục Tự Khí Công luyện tập được dễ dàng hơn hiệu quả hơn mà còn phát huy được triệt để khả năng phục hồi chức năng của các cơ quan trong cơ thể bị suy thoái. Đặc biệt là khả năng thanh trọc giải độc tuyệt diệu của Lục Tự Khí Công.
Đại Sư Khổ Toại là người Nhật xuất xứ từ một dòng Võ Sĩ Đạo nổi tiếng ở Nhật. Ông là một trong những truyền thừa đắc ý của Thánh Tăng Tuyên Hóa (Hoà Thượng Tuyên Hóa là truyền nhân đời thứ 9 phái Qui Ngưỡng Thiền Tông Tổ Phật Giáo đời thứ 47 sau Thích Ca Mâu Ni và là Tổ Thứ Nhất Phật Giáo ở phương Tây)
Nếu bộ Bát Linh Công của Đại sư Độ Giác có công năng đặc biệt trong việc trị các chứng bệnh về cột sống và hệ vận động. Bộ Càn Khôn Thập Linh của Thượng Toạ Hằng Trường có tác dụng rất diệu kỳ trong việc khai mở các trung tâm năng lượng sinh học (luân xa). Thì bộ Lục Tự Quyền lại có công năng đặc biệt trong việc thanh trọc thân thể và giải độc hoá trược khai thông sự ứ trệ cho các cơ quan nội tạng. Và đặc biệt tinh nhạy trong việc khôi phục chức năng bị suy thoái của các cơ quan có cấu tạo vi tế mà hoạt động của nó liên quan trực tiếp đến trung khu thần kinh và võ đại não như các cơ quan ngoại cảm : mắt tai mũi lưỡi…và các tuyến nội tiết.
Lục Tự Quyền là phương pháp chủ yếu mà tôi đã ứng dụng cho việc giải độc sau hóa và xạ liệu trong điều trị Ung thư cũng như việc phục hồi các cơ quan nội tạng do xạ liệu và hóa liệu làm tổn thương. Đặc biệt Lục Tự Quyền kết hợp với Ngũ hành Khí công là một phương thức phòng chống các bệnh nan y rất hữu hiệu nhất là trong việc chống di căn của Ung thư.
Lục Tự Quyền:
(Xem thêm về nội dung Lục Tự Khí Công)
LỤC TỰ KHÍ CÔNG
Lương Y Võ Hà
Dưỡng sinh bằng những phương pháp khí công là một bộ phận quan trọng của y học cổ truyền phương Đông. Chương “Nhiếp Sinh” của sách Nội Kinh đã đề cập đến nguyên nhân mà những bậc chân nhân của thời thượng cổ có thể diên niên ích thọ. Đó là “Thuận theo trời đất nắm lấy Âm Dương hô hấp tinh khí độc lập thủ thần.” Trên tinh thần nầy qua nhiều thế hệ đã có rất nhiều phương pháp khí công được biết đến. Tuy nhiên Lục tự khí công có lẽ là phương pháp duy nhất đã phối hợp giữa kỷ thuật hô hấp và sự rung động của âm thanh nhằm khai mở huyệt đạo và khử trược lưu thanh cho yêu cầu chữa bệnh dưỡng sinh.Những kỷ thuật dùng âm thanh hoặc âm nhạc để chữa bệnh hoặc để dẫn dắt con người thể nhập vào những trạng thái tâm lý hoặc tâm linh nhất định đã được biết đến từ xưa ở nhiều dân tộc cũng như nhiều nền văn hoá khác nhau trong tôn giáo cũng như trong y học. Theo quan niệm Thiên nhân tương ứng của khí công cổ đại mỗi âm thanh hoặc ý niệm đều tương ứng với một loại khí nhất định trong cơ thể cũng như ngoài vũ trụ. Do đó ta có thể vận dung âm hưởng với cường độ và trường độ thích hợp để điều chỉnh những rối loạn bệnh lý hoặc nâng cao nội khí trong cơ thể.
Lục tự khí công còn gọi là Lục tự quyết là một phương pháp khí công đặc thù đã ứng dụng nguyên tắc trên vào việc chữa bệnh dưỡng sinh. Bí quyết của phương pháp là hít vào bằng mủi thở ra bằng miệng. Khi thở ra kết hợp với niệm tự quyết. Lời quyết không phát ra thành tiếng nhưng tâm vẫn ghi nhận được. Đây là một loại tĩnh công Công pháp không cần bất cứ một động tác hoặc chiêu thức gì. Cách thở cũng đơn giản. Thở 2 thì không nín hơi. Tuy nhiên sự kết hợp đặc biệt giữa hô hấp và tự quyết có thể tạo ra những xung lực có hiệu ứng khai mở và thanh tẩy rất kỳ diệu.Tương truyền Lục tự khí công do Xích Tùng Tử một đạo trưởng tu luyện pháp trường sinh ở núi Hoa Sơn nghiên cứu ứng dụng và truyền bá ra cho đời sau. Lục tự quyết gồm 6 chữ : Suy Hô Hư Ha Hí Hu. Mỗi chữ ứng với một loại khí hoặc tạng phủ nhất định trong cơ thể con người.
Chữ SUY ứng với Thận Bàng quang thuộc Thuỷ khí.
Chữ HÔ ứng với Tỳ Vị thuộc Thổ khí.
Chữ HƯ ứng với Can Đởm thuộc Mộc khí.
Chữ HA ứng với Tâm Tiểu trường thuộc Hoả khí.
Chữ HÍ ứng với Phế. Đại trường thuộc Kim khí.
Chữ HU ứng với Tâm bào Tâm tiêu thuộc Hoả khí.
THỰC HÀNH
Tắm rữa sạch sẽ quần áo nới lỏng chọn nơi yên tỉnh thoáng mát không có ruồi muỗi.
Ngồi xếp bằng thông thường ngồi bán già hoặc ngồi trên ghế hai chân chạm đất. Hai lòng bàn tay đặt trên hai đùi. Eo hơi thót lại. Vai buông lỏng. Cằm hơi thu vào. Lưng thẳng. Hai mắt khép hờ.
Hít vào bằng mủi. Hít vào xuống bụng dưới. Chỉ cần biết trong ý niệm rằng ta đang hít vào một luồng Thiên khí từ đỉnh đầu đi thẳng xuống bụng dưới. Không cần quan tâm khí đi như thế nào cũng không cần cố hít vào quá sâu.
Thở ra bằng miệng. Trong khi thở ra liên tục phát ra một tự quyết. Ở mỗi hơi thở tự quyết chỉ phát ra một lần và ngân vang cho đến cuối hơi. Thở ra chậm nhẹ và đều đồng thời từ từ ép sát bụng vào. Thì thở ra dài hơn thì hít vào. Trong lúc thở ra môi và lưỡi ở vị trí thích hợp để phát ra âm quyết đã chọn. Tuy nhiên chỉ phát bằng ý niệm mà không phát ra thành tiếng sao cho chỉ có sự rung động trong cổ họng và nghe được rõ ràng trong tâm mà vẫn không phát âm ra ngoài. Như vậy sẽ chỉ có hơi thở thoát ra miệng. Âm quyết chỉ hiện diện trong tư tưởng của người tập người ngoài không nghe thấy.
Đến cuối hơi thở miệng lại ngậm lại đầu lưỡi chạm nướu răng trên và tiếp tục hít xuống bụng dưới để bắt đầu chu kỳ thở tiếp theo. Hơi thở nầy kế tiếp hơi thở kia khoan thai không thô không gấp.
Đối với người bình thường có thể tập mỗi âm khoảng 24 hơi thở theo một thứ tự nhất định từ âm nầy đến âm kia. Mỗi ngày có thể tập 1 hoặc 2 lần lúc bụng trống. Trường hợp chữa bệnh có thể tập trung làm nhiều lần hơn khi đến những âm có liên quan đến những rối loạn bệnh lý trong cơ thể.
Tập trung sức chú ý vào âm quyết trong thời gian thở ra là khâu quan trọng nhất trong Lục tự quyết. Do đó không nên nhẩm đếm hơi thở để khỏi phân tán tư tưởng. Có thể sử dụng cách lần chuỗi bằng tay với những chuỗi 24 hạt (hoặc hơn nữa) để kiểm soát được số hơi thở ở mỗi âm quyết.
ĐẶC ĐIỂM
Sự rung động của những âm tiết trong quá trình thực hành Lục tự quyết có công năng kích hoạt để khai mở một số đại huyệt dọc theo hai mạch Nhâm và Đốc giúp tăng cường sự trao đổi khí giữa nội khí và Thiên Địa khí và gia tăng chân khí.
Lục tự khí công là một phương pháp hô hấp tích cực. Thở sâu xuống bụng dưới giúp phát sinh nội khí ở Đan điền. Kéo dài hơi thở ra giúp gia tăng sự trao đổi chất ở các mô và các tế bào. Ép sát bụng dưới có thể tăng cường chức năng xoa bóp nội tạng của cơ hoành kích thích tiêu hoá và sự lưu thông khí huyết.
Đối với hệ thần kinh việc tập trung tư tưởng trong quá trình thực hành Lục tự quyết đặc biệt thì thở ra chậm và dài có tác dụng điều hoà thần kinh giao cảm giúp giải toả những triệu chứng bệnh lý do căng thẳng tâm lý gây ra.
Do quá trình thở khí ra Lục tự khí công được xem là một loại công phu thiên về tả thực và khử trược. Trược khí không chỉ thoát ra bên ngoài theo hơi thở ra ở miệng mà còn qua các huyệt vị và kinh lạc tương ứng với âm quyết và cả tay chân. Do đó trường hợp thực hành để chữa những bệnh như u bướu xơ hoá… người tập không nên ngồi kiết già để trược khí dễ dàng thông thoát ra 2 chân.
Tác dụng khử trược hay thanh tẩy của Lục tự khí công không phải chỉ bắt đầu từ kinh lạc hoặc phủ tạng mà phát triển ngay từ những trung tâm năng lượng ở cột sống nên còn gọi là tẩy tuỷ. Điểm đặc biệt của Lục tự khí công là hoạt hoá hai đường kinh một lên một xuống ở hai bên của cột sống qua đó gia tăng khả năng thanh hoá tuỷ sống. Sau một thời gian thực hành những người có khí cảm tốt có thể nhận biết được một luồng khí từ xương cùng đi lên dọc theo rãnh bên tráicủa cột sống. Khi đến đỉnh đầu luồng khí nầy sẽ theo rãnh bên phải cột sống đi xuống xương cùng. Đến xương cùng luồng khí nầy sẽ tự động kích hoạt chơn hoả đi lên mạch Đốc. Hiện tượng nầy trùng khớp với mô tả của những đạo sư Yoga về 3 nguồn năng lượng chính dọc theo cột sống. Luồng Ida mang năng lượng âm ở rãnh bên trái luồng Pingala mang năng lượng dương ở rãnh bên phải và luồng hoả xà Kundalini theo đường Soushoumna ở giữa cột sống đi lên. Đối với Lục tự khí công đây là một quá trình phát triển dần dà và tự nhiên người tập không nên tuỳ tiện vận hành.
LƯU Ý
Không phát tự quyết ra thành tiếng để tránh tán khí.
Khi thực hành Lục tự quyết sau quá trình xã trược khí sẽ là quá trình phản hồi tự nhiên thu thanh khí thông qua chính những huyệt vị kinh lạc mà trược khí đã được thải ra. Do đó Lục tự khí công nên phối hợp với tĩnh toạ để có thể tận dụng và phát huy quá trình phản hồi nầy trong việc thu Thiên Địa khí để tăng cường nội khí. Tĩnh toạ liền sau khi thực hành Lục tự quyết. Thời gian tĩnh toạ không giới hạn nhưng tối thiểu nên bằng với thời gian thực hành Lục tự quyết.
Tĩnh toạ được đề cập ở đây là phương pháp ngồi thiền tự nhiên không cần vận khí chỉ cần đạt đến tình trạng thư giãn và nhập tĩnh. Nhập tĩnh là tiến đến quá trình hoà hợp mà người xưa gọi là “Thiên Nhân hợp nhất”. Về mặt chữa bệnh hoà hợp là sự cân bằng giữa Âm và Dương và sự hài hoà giữa ngủ tạng lục phủ. Đây cũng là quá trình tự điều chỉnh tự hồi phục của hệ thần kinh trung ương thông qua sự điều hoà của thần kinh giao cảm và cơ chế tương tác giữa thần kinh thể dịch và nội tạng. Do đó nếu phối hợp với ngồi thiền người tập sẽ không lo tập sai thứ tự hoặc sự sai biệt nhiều ít giữa các âm quyết.
Một trong những thứ tự để thực hành Lục tự quyết là thực hành theo thứ tự tương sinh. Mộc sinh Hoả. Hoả sinh Thổ. Thổ sinh Kim. Kim sinh Thuỷ. Thứ tự đó là HƯ HA HÔ HÍ SUY HU. Chữ HU thuộc hành Hoả liên quan đến Tam tiêu được làm sau cùng với ý nghĩa làm điều hoà và thông suốt giữa thượng tiêu trung tiêu và hạ tiêu. Một hình thức khác là tập theo thứ tự SUY HÔ HƯ HA HÍ HU. Thứ tự nầy có khuynh hướng tạo ra một vòng năng lượng từ dưới lên trên từ huyệt Trường cường đi lên theo cột sống đến đỉnh đầu để khai thông mạch Đốc.
Sau thời gian ngồi thiền cần quan tâm đến động tác xã thiền để giúp khí huyết lưu thông điều hoà và đưa chân khí lưu tán trở về Đan điền hoặc Mệnh môn.
Bấm vào các đường link dưới đây để tìm hiểu thêm về Lục Tự Quyết
Các Đại sư Khí công khác hướng dẫn cách luyện tập Lục Tự khí Công:
Cách luyện tập từng Tự Quyền: Mỗi tự quyền được phát thành hai thức một thức Động (dương) và một thức Tĩnh (âm). Thức động phát trước kèm theo thanh âm của Tự Quyết phát ra ngoài nghe rõ. Thức tĩnh kèm thanh âm của Tự Quyết không phát rõ ra ngoài mà chấn động trong nội tạng.
1) Phát Quyền Chữ Hư:
(chấn động ở gan và mật phục hồi chức năng Gan bị suy giảm (suy gan) giải độc ở Gan và Can kinh (nóng gan nhiễm độc gan máu mỡ viêm gan vi rút. Phục hồi và chữa các bệnh về mắt vàng da mẫn ngứa….)
– Thức động: hít vào từ từ đứng thẳng người hơi nhao về phía trước bụng phình ra ở đan điền hít vào từ từ cho đến khi hết hơi thở đồng thời hai tay dang rộng ra hai bên lòng bàn tay úp cũng là lúc đan điền phình ra hết cở. Thở ra từ từ dùn người xuống hai tay đồng thời hạ xuống môi hơi hở hai hàm răng chạm nhau đẩy hơi từ đan điền lên phát ra chử Hư rền rã trong vòm họng.
– Thức tĩnh: Hít vào từ từ đứng dậy kéo hai tay úp vào hông bụng phình ra hết cở. Thở ra hay tay úp hờ kéo từ hông xuống đùi người hai rùn xuống ép hơi từ đan điền phát chữ Hư kéo dài ra trong vòm họng không nghe tiếng phát âm.
2) Phát Quyền Chữ HA:
Hỏa Khí Chấn động ở Tim mạch thanh huyết tả trọc chữa các bệnh suy nhược thần kinh đau đầu mất ngủ hồi hộp…
Thức động: Hít vài đứng thẳng người dậy hơi nhao người về phía trước hay tay ngữa cắt chéo trước mặt dang ra hai bên. Thở tra kéo úp lòng bàn tay xuống hơi giật về phía đằng sau hông đồng thời ép hơi từ đan điền phát hắt ra tiếng chữ HA ngắn gọn trong vòm họng.
Thức tĩnh: Hít vào hai tay khoáng từ trong ra phía trước bụng ngón đeo nhẫn và ngón út kéo úp vào lòng bàn tay ngón giữa và ngón trỏ khép chìa thẳng ra như song chỉ kéo ép hai tay vào lòng ngực ngang vú. Thở ra từ từ lật úp tay xuống toàn bộ tay thả lỏng ra thành chưởng đẩy xuống phía dưới đồng thời thở hắt ra chữ Ha không thành tiếng chỉ nghe như một tiếng “hà” rất nhẹ rất mỏng mênh vậy.
3) Phát Quyền Chữ HÔ
Chấn động ở tỳ vị chữa các bệnh về rối loạn chức năng tiêu hóa tả trược ở dạ dày và lá lách.
Thức động: Hít vào hay tay thật lỏng lẻo từ từ được khí lực nâng lên phía trước mặt bàn tay rủ xuống lòng đất. Thở ra từ từ rùn người xuống kéo hai bàn tay thuận chiều vào hướng mặt phát ra chữ HÔ om om trong vòm họng nghe tiếng.
Thức Tĩnh: Thở vào từ lật hai bàn tay lòng bàn tay hướng lên trên hay bàn tay kéo khoành xuống hông từ đứng thẳng người dậy hơi nhao về phía trước. Thở ra hắt lòng tay ra phía sau ép hơi đan điền phát chữ Hô không thành tiếng.
4) Phát Quyền Chữ HI:
Chấn động vùng Phổi và kinh Đại trường. Giải độc do hô hấp nhiễm độc hóa chất.v..v
Chữ Hi lúc phát ra rền rã ngân dài trong cuống họng.
5) Phát Quyền Chữ SUY:
Chấn động vùng Thận bàng quang và bụng dưới giải độc thận thanh nhiệt lợi tiểu chữa các bệnh về nội tiết và bộ phận sinh dục.
Phát chữ SUY uốn lưỡi lên trên vòm họng lúc phát ra nghe như tiếng xùy đuổi gà đuổi chim vậy
6) Phát Quyền Chữ HU:
Chữ Hu thuộc về tam tiêu chủ về đường thủy đạo trong cơ thể.
Riêng Tự Quyền Hu được thu phát ra bằng ba hơi thở tượng trưng cho Tam Tiêu: thượng tiêu trung tiêu hạ tiêu. Chữ Hu phát ra rền rã ngân vang như tiếng hú của gió vậy.
Luyện Lục Tự quyền có hai cách:
Cách thứ nhất: Phát quyền đơn là cách mỗi một tự quyết chỉ phát một lần lần lượt theo vòng ngũ hành tương sinh: Hư-Ha-Hô-Hi-Suy-Hu (mộc-hỏa-thổ-kim-thủy-hỏa). Khi phát đến chữ Hu thì bắt đầu phát luyện lại từ đầu (bắt đầu từ chữ Hư) cứ thế luyện thành nhiều vòng theo cấp số 3 vòng 6 vòng hay 9 vòng….
Cách thứ hai : Phát quyền bội là cách mỗi tự quyền phát thành nhiều lần theo cấp số 3 6 9 12….hết tự quyền này rồi đến tự quyền khác theo ngũ hành tương sinh bắt đầu từ chữ HƯ (Nhật Khởi Đông Khai)
Lưu Ý:
Với các bạn quan tâm!
Trước lúc đi vào từng phương pháp vận dụng Lục Tự quyền chữa từng bệnh cụ thể các bạn cần phải hiểu và luyện được các tự quyền căn bản sau đó mới có từng bài luyện cho từng bệnh cụ thể được.
Sau khi xem kỷ phần này mời các bạn xem tiếp phần 2 gồm có:
1) Ứng dụng Lục Tự Quyền chữa các bệnh về mắt như Cận thị viễn thị loạn thị lão thị viêm hoàng điểm đục thể tinh thủy..v….v…
2) Giải độc và phục hồi nội tạng sau Xạ liệu và Hóa liệu trong điều trị Ung thư bằng Lục Tự Quyền
3) Giải độc Gan Thận chống nóng gan hỏa vượng máu mỡ viêm gan xơ cứng gan….bằng Lục Tự quyền
4) Phục hồi rối loạn nội tiết rối loạn và suy giảm khả năng tình dục hiếm muộn con cái bằng Lục Tự Quyền và dược thảo kết hợp
_____
30.03.10
QN thuận nghĩa