Tiếp theo phần 3

(THỐNG TÝ LUẬN)

Có những cơ sở lý luận khoa học đã được kiểm chứng qua nhiều lần thực nghiệm và đã được khẳng định như chân lý nhưng khi đem ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống thì không đem lại kết quả như ý muốn. Nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu về cơ thể học. Khi đem vận dụng những kết quả nghiên cứu về cấu tạo vật chất cơ chế sinh lý   cơ chế hóa sinh .v..v…của cơ thể học vào trong lĩnh vực sức khoẻ và đời sống thì đôi khi lại gặp những tương tác phản tác dụng.

Điều đó cũng không có gì là khó hiểu vì đời sống và sự sinh tồn của con người không chỉ đơn thuần là cấu tạo vật chất. Đời sống trong đó bao gồm cả vấn đề sức khỏe và tuổi thọ ngoài những cấu tạo vật chất ra còn có yếu tố tinh thần nữa.

Tư duy và ý chí của con người có những ảnh hưởng có tính chất quyết định đến qui luật vận động vật chất trong cơ thể. Bởi vì vậy chỉ nắm vững những cấu tạo về hóa lý sinh lý..hiểu rõ những cơ chế hoạt động và chức năng của các cơ quan trong cơ thể vẫn chưa thể nói rằng đã đầy đủ các yếu tố cần thiết để đưa ra những liệu pháp có tác dụng hữu hiệu khi những cấu tạo vật chất và cơ chế sinh lý có sự “trục trặc”. Trạng thái của tinh thần khả năng tư duy sự cảm thụ từ ý thức…cũng có tác dụng quyết định đến chất lượng của đời sống. Không những thế nó còn có thể đưa cơ thể của con người ra ngoài ranh giới những qui luật vận động tất yếu của vật chất. Chính vì thế mà cơ thể của con người vẫn còn luôn luôn là một “thế giới” đầy bí hiểm cho khoa học thực nghiệm. Cũng chính vì vậy mà sự vận động của vật chất trong cơ thể con người trở nên rất huyền bí và siêu nhiên.

Để tránh những luận cứ có thể bị qui nạp về phạm trù duy tâm huyền bí tôi xin đưa ra những ví dụ rất thực tế trong lĩnh vực bảo vệ sức khoẻ có liên quan đến vấn đề này.

Ví dụ về những vết bầm dập của cơ thể do áp lực va chạm đưa lại Tây y dựa vào cơ sở lý luận về vật lý hóa học ..để đưa ra phương pháp trị liệu bằng cách chườm lạnh để điều trị. Họ cho đó là phương pháp tất yếu có thể co kết khối bầm lại và chống lại được con đau do bị tổn thương. Đông y thì xử lý hoàn toàn ngược lại dựa vào cơ chế vận khí và hoạt huyết (một cơ chế không có trong hệ nhận thức của khoa học thực nghiệm). Đông y xử lý hiện tượng tổn thương này bằng cách chườm nóng. Nếu bạn là một Đông y sĩ làm việc trong một ê kíp Bác sĩ tây y đưa ra phương pháp chườm nóng như lăn trứng gà luộc chườm muối hoặc xoa dầu nóng vào vùng lân cận mắt khi bị bầm đen do va chạm thì bạn sẽ bị đồng nghiệp Tây y phán bạn là “đồ điên” “đồ ngu xuẩn” ngay. Với họ phương pháp xử lý gần như tất nhiên là chườm nước đá. Về kết quả phương pháp chườm đá lạnh có tác dụng cắt cơn đau tạm thời các khối bầm không lan rộng ra nhiều và có xu hướng co kết lại nhờ vào hơi lạnh nhưng khi hết chườm lạnh thì cơn đau lại tại phát lại và vết bầm có thể sẽ rất lâu tan hết.  Kết quả của phương pháp chườm nóng thì không tạm thời cắt được cơn đau đôi khi lại còn đau thêm nữa nhưng khi thôi chườm nóng thì cơn đau lại giảm dần và vết bầm tan đi rất nhanh do sức nóng có thể kích thích sự sự hoạt huyết và vận khí mạnh của cơ thể để đánh tan vết bầm. Đây là một ví dụ rất đơn giản nhưng thực ra đã khái quát lên được điểm khác biệt về liệu pháp giữa Đông y và Tây y.

Một ví dụ khác tương tự như trên là hiện tượng bị trặc gân trẹo gân do vận động sai mà hiện tượng thường gặp nhất là trặc khuỷu chân mắt cá trẹo đầu gối hay khớp bàn tay …. Tây y thì cứ phải chườm đá lạnh liên tục hoặc xử lý với các loại bình xịt hơi  làm tê lạnh cục bộ kết quả sau khi chườm lạnh có thể tạm thời vận động được dễ dàng ngay lúc đó nhưng sự đau nhức có thể bị kéo dài thành nhiều tháng và nhiều khi có thể trở thành kinh niên đau nhức khi thời tiết thay đổi. Cũng hiện tượng này Đông y lại xử trí bằng cách làm nóng bằng cách bó loại dược thảo có tính chất cực nhiệt xoa bóp bằng dầu nóng bằng rượu mạnh như rựợu ngâm mã tiền rượu mật gấu…(xử lý hiện tượng này không có liệu pháp nào của Tây y có thể sánh bằng các phương pháp bó lá lưỡi hổ hoặc xoa rượu mã tiền của các thầy trật đả nhà ta cả- Lá lưỡi hổ xào với muối bó vào chổ trẹo gân nóng có khi còn bỏng rộp cả da rượu ngâm mã tiền rượu mật gấu là các loại cực nóng). Kết quả của phương pháp trật đã không những gân cơ hồi phục nhanh mà cơn đau cũng chấm dứt vĩnh viễn.

Tây y lý luận rằng lúc bị trật trẹo gân chằng có thể bị trượt giãn ra hoặc bị rạn đứt vì vậy cần phải chườm lạnh để cho gân cơ co lại (nóng nở ra lạnh co lại của qui luật vật lý). Kết quả hồi phục chậm cơn đau dai dẳng. Đông y cho rằng chườm nóng để hoạt huyết vận khí tích cực để đưa nhanh cách chất bồi bổ và khí lực đến để trị liệu. Kết quả đương nhiên tích cực hơn.

Một hiện tượng bệnh lý khác Tây y dựa vào các kết quả nghiên cứu về cấu tạo hệ thần kinh và cơ chế hoạt động của nó để xác định đó là bệnh Suy nhược thần kinh (depression). Khi bệnh nhân có hiện tượng mất ngủ thường xuyên tình thần bạc nhược uể oải tâm trạng lo âu sợ hãi chán chường không có hứng thú với cuộc sống trầm cảm chán ghét giao tiếp lảm nhảm cằn hằn tính tình khó chịu hồi hộp bồn chồn đôi khi còn có đau đầu chóng mặt đêm nằm ác mộng la hét thất kinh….Họ cho rằng nguyên nhân do Thần kinh bị tổn thương bị suy yếu..bệnh thuộc về tâm lý (Physioloie). Xác định nguyên nhân bệnh như vậy nghe ra quá khoa học quá hợp lý còn gì nữa. Vậy là liệu pháp tối ưu nhất của Tây y là các loại hóa dược an thần thuốc ngủ thuốc xoa dịu thần kinh thuốc kích thích.. v..v..kết quả là liều lượng thuốc uống ngày càng cao uống mãi cho đến trở thành con nghiện..kết quả là bệnh nhân trở thành con bệnh tâm thần kinh niên và đôi khi trở thành nạn nhân của việc tự sát do bị trầm cảm hay là lên cơn nghiện thuốc.

Đông y xác định nguyên nhân bệnh này hoàn toàn khác với Tây y khác đến nổi Tây y không thể nào chấp nhận được những cơ sở lý luận “phi khoa học” như thế. Nhưng kết quả của những phương toa trị liệu chứng này của Đông y thì lại làm cho Tây y coi đó là “phép mầu nhiệm của Thượng Đế”.

Đông y không coi bệnh này thuộc về tâm lý hay bệnh về thần kinh mà họ xác định đó là chứng Tâm Thận bất giao hay còn gọi là chứng Thủy hỏa vị tế có nghĩa là chứng bệnh khí huyết giữa Thận và Tim không lưu thông giao hòa với nhau. Theo y lý á đông thì Tim thuộc về Hỏa khí (Lửa) Thận thuộc về Thủy khí (Nước). Thủy Hỏa tuy khắc chế lẫn nhau nhưng chúng cần có nhau giao lưu với nhau để điều tiết và cân bằng lẫn nhau. Nếu do nguyên nhân gì đó thận khí không giao lưu được với tâm khí thì dẫn đến thủy hỏa rời nhau không khống chế được nhau cho nên gọi là Thủy Hỏa vị tế. Do khí Thận thủy không bốc lên cao để kiềm chế Tâm hỏa cho nên khí hỏa mới vượng loạn hại Tâm (tim) cho nên mới sinh ra chứng bồn chồn lo âu mất ngủ hoảng loan sợ sệt…đau đầu huyễn tượng vân..vân… Nguyên nhân của chứng này đa số là do Thận dương suy kế đến Tâm hư và có thể là do khí huyết của kinh Tam tiêu bị bế tắc. Liệu pháp là tùy chứng mà ra toa bổ thận hay bổ tâm hoặc đả thông Tam tiêu là được. Các toa cường dương tráng thận toa Thiện vương bổ tâm…đều có kết quả rất hữu hiệu cho chứng này.

Có một căn bệnh do Tây y quá lệ thuộc vào các cơ sở của thực nghiệm cho nên đến bây giờ Tây y vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân và cơ chế gây bệnh vì vậy bệnh này trở thành một chứng nan y đối với Tây y. Nhưng đối với Đông y thì bệnh này xử lý rất đơn giản bằng những cơ sở lý luận mà Tây y cho rằng cũng không có cơ sở khoa học. Tuy vậy trong tất cả các liệu pháp đưa ra để chống lại hội chứng này ở trong các tài liệu y khoa hiện đại người ta đều trân trọng chấp nhận các liệu pháp châm cứu khí công và thảo dược của Đông y là tối ưu nhất. Đó là hội chứng đau nhức thần kinh gân cơ (Nhục Thống Tý) mà từ Y học gọi là bệnh Fibromyalgie (Faser-Muskel-Schmerz). Tây y định nghĩa bệnh này là “một chứng bệnh kinh niên không rõ nguyên nhân và không có khả năng điều trị..”( Tiếng Đức trong từ điển y khoa: Die Fibromyalgie (Faser-Muskel-Schmerz) ist eine schwere chronische unklar Usache nicht heilbare Erkrankung )

Quá trình nghiên cứu về bệnh này của Tây y trải qua rất nhiều thời kỳ và khái niệm về bệnh lý bị thay đổi liên tục qua khi là nó là cái này khi nó là cái kia và hiện nay đã đưa đến kết luận khá mơ hồ và đành phải chấp nhận phương pháp trị liệu bị động dùng các hoá dược để tạm thời dập tắt triệu chứng.

Bệnh Fibromyalgie đã được giới y học Tây phương nghiên cứu từ thế kỷ thứ 18 dưới nhiều tên gọi khác nhau như bệnh phong thấp cơ hay bệnh viêm xơ (sợi thần kinh) (rhumatisme musculaire ou fibrositis) thường gặp ở phụ nữ có bệnh tâm thần phân liệt nó được coi là bệnh tâm thần lẫn trầm cảm ở thập niên 70-80

Năm 1981 Bác Sĩ Muhammad B. Yunus là người đầu tiên thử nghiệm kiểm soát các triệu chứng của bệnh qua xét nghiệm máu.

Thuật ngữ đặt tên cho bệnh này là: Hội chứng đau nhức tự phát lan tỏa khắp cơ thể (diffuse idiopathic syndrome polyalgique=SPID) do Giáo Sư Kahn đề xướng nhưng trong Kỳ Đại Hội Y Tế Thế Giới năm 1976 đã chọn thuật ngữ Anglo-Saxon Fibromyalgie để có thể mô tả các triệu chứng đúng hơn (theo tiếng Latin và Hy Lạp fibra là chất xơ sợi thần kinh myo là bắp thịt algos là đau đớn)

Nguyên nhân gây ra bệnh này chưa được thống nhất ủy ban chuyên khoa của Đại Học Chuyên Khoa Thấp Khớp Hoa Kỳ đưa ra một lý thuyết để xác định tiêu chuẩn bệnh dựa trên một rối loạn gây ra bởi xáo trộn hormon trong hệ thần kinh giao cảm trung ương trong khi đó Tổ Chức Y Tế Thế Giới năm 1992 công nhận nó là bệnh Thấp Khớp mà trước đó các bác sĩ coi là bệnh Tâm Thần (maladie psychiatrique) rất hiếm chỉ xảy ra ở các bệnh nhân nữ giới.

Từ năm 1995 bệnh loại này càng thấy nhiều đặc biệt vào năm 2000 có nhiều người trẻ dưới 30 tuổi và trong nam giới cũng có người mắc phải. Trước kia bệnh fibromyalgie được phân loại bệnh theo tiêu chuẩn quốc tế (classification internationale des maladies =CIM) dưới mã số M.70.0 là loại bệnh thấp khớp không rõ ràng. Năm 2006 nhiều nghiên cứu so sánh kết qủa của MRI cho thấy hoạt động của não khác nhau giữa những người bị bệnh và người không bị bệnh do đó nguyên nhân của bệnh này được gọi là bệnh tâm thần hay bệnh thuộc tâm lý thần kinh cũng đã bị loại trừ nên mã số của bệnh đổi lại là M 79.7

Trung bình từ 2-10% dân số toàn cầu của các nước công nghiệp bị bệnh này riêng tại Gia Nã Đại được thống kê năm 2008 có khoảng 900.000 người mắc bệnh ở Hoa Kỳ 2% dân mắc bệnh này đa số là nữ giới nam giới chiếm 0 5%

Từ năm 1990 trường đại học chuyên khoa thấp khớp Hoa Kỳ đã nghiên cứu tìm được 18 điểm đau đặc biệt của bệnh này. Tuy nhiên cũng rất khó chính xác nếu thiếu sót những thử nghiệm khác của phòng xét nghiệm y khoa vì những điểm đau ấy cũng có mặt trong các bệnh khác như viêm khớp loãng xương….vì thế trường đại học chuyên khoa thấp khớp Hoa Kỳ (ACR) đã xếp thành tiêu chuẩn định bệnh (tiêu chuẩn “ACR 1990”) căn cứ vào những dấu hiệu triệu chứng lâm sàng theo thống kê 18 điểm đau

-Một quá trình cơn đau lan ra toàn thân trong thời gian hơn 3 tháng ảnh hưởng đến tứ chi

-Trong 18 điểm đau này các bác sĩ phải ấn đè vào một lực (từ 39 Newtons) bệnh nhân sẽ cảm nhận được có bao nhiêu điểm đau trong 18 điểm đau nếu có hơn 11 điểm đau mới xác định là có bệnh Fibromyalgie

-Các hình thức đau mãn tính có cảm giác ở chỗ đau như bầm máu cháy phỏng đứt đè nặng…thường xuyên ở tứ chi và lưng. Dấu hiệu này kéo dài suốt cả ngày cả tuần cả tháng cả năm

-Đau cơ bắp đau xương khớp đau nóng gan bàn chân bàn tay đau gân mệt thể xác và tinh thần tâm trạng trống rỗng nhìn không đâu mất kiên nhẫn dễ nổi cáu khi bị va chạm do căng thẳng do tiếng động ồn ào do ánh sáng do sự hiện diện của người khác do mùi hôi mùi thức ăn…

-Bị trầm cảm có ý nghĩ chán đời muốn tự tử cơ thể thiếu chất bột (glucid carbohydrates) nên hay ưa ăn bánh ngọt bánh mì khoai tây chiên… mắt khô nóng như phỏng rối loạn trí nhớ rối loạn tiêu hóa (đánh rắm tiêu chảy) khó ngủ không tập trung nặng hơn khi bị đói hay thiếu đường chân tay run yếu sức cảm giác đau nhức toàn thân.

Những rối loạn trên thường kết hợp với bệnh thuộc tiêu hóa trường vị làm đau đầu

Những xét nghiệm y khoa thấy có sự bất thường của chất não tủy ở bệnh nhân mức độ chất P một chất dẫn truyền thần kinh có liên quan đến nhận thức của sự đau đớn sự hiện diện của chất chuyển hóa để tạo ra chất giảm đau như monoamines serotonine noradrénaline dopamine bị giảm trong khi đó nồng độ tập trung chất nội sinh như chất á phiện (endorphine enképhaline) gần như cao hơn bình thường như vậy yếu tố tăng trưởng thần kinh đã được chứng minh tạo ra chất tham gia vào các cấu trúc liên quan đến não tủy giữa não và cột sống tủy và cả sự gia tăng acide amine trong chất lỏng não tủy chứng minh rằng có sự liên hệ mức độ chuyển hóa của glutamate và oxyde nitrique và những cảm giác đau. Xem hình ảnh của những phản ứng của chức năng não thấy giảm lưu lượng máu ở đồi não ở những hạch dưới đáy não và giữa não.

Rất nhiều nghiên cứu thử nghiệm thấy rằng bệnh fibromyalgie càng gia tăng cái đau khi bị tăng áp lực tăng nhiệt nóng qúa hay lạnh qúa hoặc nhạy cảm với điện hay hóa chất. Những thử nghiệm khác nhau trên hệ thống thần kinh điều chỉnh giảm cơn đau của hệ thần kinh ức chế cho thấy những phản ứng có thay đổi được lập đi lập lại và làm giảm đi hay mất đi phản ứng giảm đau dẫn từ sự gắng sức của thể lực những bằng chứng này cho thấy sự xáo trộn của hệ thống thần kinh trung ương.

Nghiên cứu đến như vậy nhưng hiện nay bệnh fribromyalgie Tây y vẫn chưa có hướng điều trị tận gốc tạm thời chữa vào triệu chứng là những hậu qủa tất yếu của bệnh qua những thử nghiệm đang nghiên cứu để tìm nguyên nhân gây bệnh.

Về phía Đông y thì xác định bệnh chứng này khá đơn giản. Đông y cho rằng đây là chứng đau nhức thần kinh gân cơ (Nhục thống tý) nguyên nhân do Khí hư Huyết trệ phương pháp điều trị là tùy chứng mà bổ huyết thông khí ở chỗ nào là được. Đơn giản vậy thôi.

Giới Khí công của Đông y thì đây là một chứng Tinh sai Khí thiếu Thần hư (Tinh-Khí-Thần). Liệu pháp là luyện tập dưỡng sinh để điều tinh hoạt khí và tụ thần là xong. Quá đơn giản!!!

Tôi dài dòng đưa ra những ví dụ đơn giản trên để minh chứng cho luận cứ mà tôi đã nêu ra ở phần trước rằng phải đến lúc cần phải xem xét lại những lý luận sai lầm về cơ bản cho liệu pháp trị liệu đau nhức của Tây y.

Đưa ra những ví dụ đó để chứng minh lập luận của tôi có cơ sở chứ không phải vì hoang tưởng loạn ngôn để phê phán sự sai lầm của một nền khoa học hiện đại có nền tảng nghiên cứu của những khối óc trác tuyệt từ hàng ngàn năm nay. Đối với hội chứng đau nhức Y học hiện đại (Tây Y) đến nay vẫn chỉ dừng lại ở những hiểu biết như đối với bệnh Fibromyalgie nói trên mà thôi

Đối với đau nhức Tây y và Khoa học đã giãi mã được cơ chế gây nên  sự cảm thụ đâu nhức bằng những nghiên cứu về cấu tạo của hệ thần kinh và cơ chế của cơn đau. Nhưng khi xác định liệu pháp điều trị họ lại chỉ dựa vào cơ chế của cơn đau để tìm cách phá bỏ hoặc cắt đứt cái cơ chế gây đau đó (Đó là dập tắt triệu chứng). Chứ họ không loại bỏ nguyên nhân gây ra hiện tượng bắt buộc cơ thể phải có cảm thụ đau thái quá. Muốn không có cơ chế đau xảy ra liên tục triền miên thì phải loại bỏ nguyên nhân gây nên kích thích cảm thụ đau chứ không phải chỉ cần cắt cơn đau là được. Có lẽ từ sai lầm   lầm tưởng Triệu chứng (biểu hiện của cơ chế cảm thụ đau) là Nguyên nhân nên Tây y mới phải luẩn quẩn hàng ngàn năm nay mà vẫn không tìm ra liệu pháp hữu hiệu chống đau nhức chăng?

Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu khái niệm về đau nhức của Tây y và Đông y như thế nào thì khi đó chúng ta mới thấu rõ được tại vì sao cơ sở Lý luận của Đông Y mà Tây y khó chấp nhận vì cho là mơ hồ “thiếu khoa học” lại có được những kết quả tích cực mà Tây y phải chấp nhận như những “phép mầu”.

A- Quan niệm về đau nhức của Y học hiện đại (Tây Y)

 

Đau được định nghĩa là cảm giác tạo ra bởi hệ thống thần kinh khi có tác động tại các thụ cảm thể nhận cảm giác đau (tiếng Anh: nociceptor). Đau nhức thuộc về phạm trù cảm giác của từng cá nhân

Đau là một yếu tố quan trọng của sự sinh tồn. Nhờ biết đau mà con vật có phản ứng theo phản xạ hay kinh nghiệm tránh để không tiếp tục bị chấn thương.

Cơ sở của cảm giác đau bao gồm 2 cơ sở chính: Cơ sở sinh học Cơ sở tâm lý
1) Cơ sở sinh học:

Cơ sở sinh học của cảm giác đau bao gồm cơ sở giải phẫu sinh lý sinh hóa nó là lý luận cơ bản để cho phép giải mã được tính chất thời gian cường độ và vị trí của cảm giác đau. Cảm giác đau xuất hiện tại vị trí tổn thương là một phản xạ tích cực để cơ thể phản xạ đáp ứng lại nhằm loại trừ tác nhân gây đau.

Cơ chế nhận cảm đau là: Cảm thụ thể => Sự dẫn truyền cảm giác đau từ ngoại vi vào tủy sống => Sự dẫn truyền cảm giác đau từ tủy sống lên não => Trung tâm nhận cảm đau

a) Thụ cảm thể
: bắt đầu từ các thụ cảm thể phân bố khắp nơi trong cơ thể gồm các loại thụ cảm thể nhận cảm đau thuộc cơ học hóa học nhiệt và áp lực.

Các chất trung gian hóa học: Cơ chế nhận cảm đau của các thụ cảm thể chưa được biết rõ ràng. Có thể các tác nhân gây đau đã kích thích các tế bào tại chỗ giải phóng ra các chất trung gian hóa học như các kinin (bradykinin serotonin histamin) một số prostaglandin chất P… Các chất trung gian này sẽ tác động lên thụ cảm thể nhận cảm đau làm khử cực các thụ cảm thể này và gây ra cảm giác lan truyền đau.

b) Sự dẫn truyền cảm giác đau từ ngoại vi vào tủy sống
Sự dẫn truyền cảm giác từ ngoại vi vào tủy sống do thân tế bào neuron thứ nhất nằm ở hạch gai rễ sau đảm nhiệm. Các sợi thần kinh dẫn truyền cảm giác (hướng tâm) gồm các loại có kích thước và tốc độ dẫn truyền khác nhau như sau:

Các sợi Aα và Aβ (týp I và II) là những sợi to có bao myelin tốc độ dẫn truyền nhanh chủ yếu dẫn truyền cảm giác bản thể (cảm giác sâu xúc giác tinh).

Các sợi Aδ (týp III) và C là những sợi nhỏ và chủ yếu dẫn truyền cảm giác đau nhiệt và xúc giác thô. Sợi Aδ có bao myelin mỏng nên dẫn truyền cảm giác đau nhanh hơn sợi C không có bao myelin. Vì vậy người ta gọi sợi Aδ là sợi dẫn truyền cảm giác đau nhanh còn sợi C là sợi dẫn truyền cảm giác đau chậm.

c) Sự dẫn truyền cảm giác đau từ tủy sống lên não
Đường dẫn truyền cảm giác đau nhiệt và xúc giác thô (sợi Aδ và C) đi từ rễ sau vào sừng sau tủy sống ở đó các axon của neurone thứ nhất hay neurone ngoại vi kết thúc và tiếp xúc với neurone thứ hai trong sừng sau tủy sống theo các lớp khác nhau (lớp Rexed). Các sợi Aδ tiếp nối synapse đầu tiên trong lớp I (viền Waldeyer) và lớp V trong khi sợi C tiếp nối synapse đầu tiên trong lớp II (còn gọi là chất keo Rolando)

Các sợi trục của neurone thứ hai này chạy qua mép xám trước và bắt chéo sang cột bên phía đối diện rồi đi lên đồi thị tạo thành bó gai thị.

Bó tân gai thị: dẫn truyền lên các nhân đặc hiệu nằm ở phía sau đồi thị cho cảm giác và vị trí.

Bó cựu gai thị: dẫn truyền lên các nhân không đặc hiệu và lên vỏ não một cách phân tán.

Bó gai lưới thị: bó này có các nhánh qua thể lưới rồi từ thể lưới lên các nhân không đặc hiệu ở đồi thị có vai trò hoạt hóa vỏ não

d) Trung tâm nhận cảm đau
Đồi thị (thalamus) là trung tâm nhận cảm đau trung ương có các tế bào thuộc neurone cảm giác thứ ba. Khi có tổn thương đồi thị xuất hiện cảm giác đau đồi thị rất đặc biệt ở nửa người bên đối diện (hội chứng thalamic): cảm giác lạnh hoặc nóng bỏng rất khó chịu hành hạ mà bệnh nhân khó có thể mô tả và khu trú được; đau thường lan tỏa và lan xiên; không đáp ứng với các thuốc giảm đau thông thường; đôi khi lúc ngủ lại đau nhiều hơn vận động thì giảm. Khám cảm giác nửa người bên đối diện với tổn thương thấy hiện tượng loạn cảm đau (hyperpathic).

Từ neurone thứ ba ở đồi thị cho các sợi họp thành bó thị vỏ đi qua 1/3 sau của đùi sau bao trong qua vành tia tới vỏ não hồi sau trung tâm (hồi đỉnh lên vùng SI và SII) và thùy đỉnh để phân tích và ra quyết định đáp ứng:

Vùng SI phân tích đau ở mức độ tinh vi.
Vùng SII phân biệt về vị trí cường độ tần số kích thích (gây hiệu ứng vỏ não).

2 Cơ sở tâm lý: bao gồm có Yếu tố cảm xúc Yếu tố nhận thức Yếu tố hành vi thái độ
a)Yếu tố cảm xúc
Cảm xúc có tác dụng trực tiếp lên cảm giác đau làm đau có thể tăng lên hay giảm đi. Nếu cảm xúc vui vẻ thoải mái có thể làm đau giảm đi ngược lại nếu cảm xúc khó chịu bực dọc buồn chán… có thể làm đau tăng thêm. Thậm chí trong một số trường hợp yếu tố cảm xúc còn được xác định là một nguyên nhân gây đau ví dụ ở người bị bệnh mạch vành nếu bị cảm xúc mạnh có thể dẫn đến bị lên cơn đau thắt ngực cấp tính. Ngược lại đau lại có tác động trở lại cảm xúc nó gây nên trạng thái lo lắng hoảng hốt cáu gắt…

b) Yếu tố nhận thức
Nhận thức đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng lên quá trình tiếp nhận cảm giác nói chung và cảm giác đau nói riêng. Từ những quan sát cổ điển của Beecher người ta biết ảnh hưởng của sự biểu hiện mức độ đau tương ứng với bệnh lý: Nghiên cứu so sánh hai nhóm người bị thương là nhóm quân nhân và nhóm dân sự với những tổn thương giống nhau Beecher quan sát thấy nhóm quân nhân ít kêu đau hơn và đòi hỏi ít thuốc giảm đau hơn. Giải thích sự khác nhau này giữa hai nhóm là do chấn thương đã mang lại những ý nghĩa hoàn toàn khác nhau: biểu hiện tích cực ở nhóm quân nhân (được cứu sống kết thúc việc chiến đấu được xã hội quý trọng…) còn ở nhóm dân sự thì có biểu hiện tiêu cực (mất việc làm mất thu nhập mất đi sự hòa nhập với xã hội…).


c) Yếu tố hành vi thái độ
Bao gồm toàn bộ những biểu hiện bằng lời nói và không bằng lời nói có thể quan sát được ở bệnh nhân đau như than phiền điệu bộ tư thế giảm đau mất khả năng duy trì hành vi bình thường. Những biểu hiện này có thể xuất hiện như phản ứng với tình trạng đau cảm nhận được chúng tạo nên những dấu hiệu phản ánh tầm quan trọng của vấn đề đau và cũng đảm bảo chức năng giao tiếp với những người xung quanh. Những biểu hiện này phụ thuộc vào môi trường gia đình và văn hóa dân tộc chuẩn mực xã hội tuổi và giới của cá thể. Những phản ứng của người xung quanh có thể ảnh hưởng đến nhân cách ứng xử của bệnh nhân đau và góp phần vào tình trạng duy trì đau của họ.

 

3) Các loại đau nhức được phân loại: Phân loại theo cơ chế gây đau Phân loại theo thời gian và tính chất đau Phân loại đau theo khu trú.
a) Phân loại theo cơ chế gây đau bao gồm:
– Đau do cảm thụ thần kinh (nociceptive pain)[2].
– Đau do nguyên nhân thần kinh (neuropathic pain)[2].
– Đau do căn nguyên tâm lý (psychogenic pain)[3].

–  Đau do cảm thụ thần kinh (nociceptive pain)
Đau do cảm thụ thần kinh là đau do thái quá về sự kích thích nhận cảm đau tổn thương mà bắt đầu từ các thụ cảm thể nhận cảm đau tổn thương rồi dẫn truyền hướng tâm về thần kinh trung ương; là cơ chế thường gặp nhất trong phần lớn các chứng đau cấp tính (chấn thương nhiễm trùng thoái hóa…). ở giai đoạn mạn tính người ta nhận thấy cơ chế này có trong những bệnh lý tổn thương dai dẳng ví dụ như trong các bệnh lý khớp mạn hay trong ung thư.
Đau do cảm thụ thần kinh thường nhạy cảm với các thuốc giảm đau ngoại vi hay trung ương và các phương pháp phong bế vô cảm.

– Đau do nguyên nhân thần kinh (neuropathic pain)
Một số trường hợp đau xảy ra trong bệnh cảnh di chứng tổn thương hay cắt đoạn thần kinh ngoại vi (như trong hiện tượng chi ma zona đau dây V cắt đoạn thần kinh liệt hai chân…). Hiện tượng này được giải thích bằng cơ chế lạc đường dẫn truyền vào như sau:
Sau tổn thương hay cắt đoạn các đường hướng tâm ngoại vi các neurone ở sừng sau tủy sống hay trên tủy có thể trở nên tăng nhạy cảm do những cơ chế còn chưa biết rõ. Có thể là: do suy giảm sự ức chế do bộc lộ các đường kích thích tăng nhạy cảm của những đầu thần kinh bị cắt đoạn sự dẫn truyền qua lại giữa các sợi kề nhau từ sợi này qua sợi khác mọc chồi thần kinh giao cảm… Tính chất đặc biệt của các hiện tượng đau là do yếu tố giao cảm bị lôi cuốn vào quá trình bệnh lý (đau giao cảm). Theo M.I Axtvatxaturop đau cháy là kết quả của kích thích quá mức đồi thị. Đây là một điển hình về cơ chế đau trung ương đối lập với đau do thái quá nhận cảm đau tổn thương do kích thích ngoại vi.

Tuy nhiên thực tế tính phức tạp của cơ chế là vừa trung ương vừa ngoại vi nên người ta thường dùng thuật ngữ đau do nguyên nhân thần kinh (neuropathic) hay đau do bệnh lý thần kinh mà không nghiêng về phần ngoại vi hay trung ương của chứng đau.
Ngoài ra trong lâm sàng còn thường gặp chứng đau hỗn hợp (mixed pain) bao gồm cả cơ chế đau nhận cảm và đau thần kinh.

– Đau do căn nguyên tâm lý (psychogenic pain)
Đau do căn nguyên tâm lý có đặc điểm: là những cảm giác bản thể hay nội tạng ám ảnh nhiều hơn là đau thực thụ với sự mô tả phong phú không rõ ràng hoặc luôn thay đổi và thường lan tỏa triệu chứng học không điển hình. Đau chỉ mất khi người bệnh tập trung chú ý một vấn đề gì đó thuốc chống đau không có tác dụng với loại đau này. Thường gặp trong các trường hợp như: bệnh hysteri bệnh rối loạn cảm xúc (trầm cảm) tự kỷ ám thị về bệnh tật bệnh tâm thần phân liệt… Khi phát hiện ra những trường hợp đau do căn nguyên tâm lý cần gửi bệnh nhân đến với các thầy thuốc chuyên khoa tâm lý hay tâm thần để điều trị.

– Đau trong bệnh trầm cảm (depression)
là hội chứng rất hay gặp. Nhiều trường hợp trầm cảm là hậu quả của một bệnh đau thực thể có trước sau đó chính trầm cảm quay trở lại làm bệnh lý đau ngày càng tồi tệ hơn tạo nên một vòng xoắn bệnh lý. Bệnh nhân có thể có triệu chứng đau rất đa dạng không phù hợp với tổn thương thực thể sẵn có kèm theo mệt mỏi lo bệnh mất ngủ giảm khả năng làm việc điều trị nhiều nơi không có kết quả. Điều trị các kiểu đau này cần dùng thuốc chống trầm cảm kết hợp với tâm lý liệu pháp.

b) Phân loại theo thời gian và tính chất đau.
– Đau cấp tính:
Đau cấp tính (acute pain) là đau mới xuất hiện có cường độ mạnh mẽ có thể được coi là một dấu hiệu báo động hữu ích. Đau cấp giúp việc chẩn đoán cần thiết nhằm xác định chứng đau có nguồn gốc thực thể hay không.
Đau cấp tính bao gồm:
Đau sau phẫu thuật (post operative pain).
Đau sau chấn thương (pain following trauma).
Đau sau bỏng (pain following burn).
Đau sản khoa (obstetric pain).
Đau mạn tính.

– Ngược lại với đau cấp tính đau mạn tính (chronic pain) là chứng đau dai dẳng tái đi tái lại nhiều lần. Nó làm cho cơ thể bị phá hủy về thể lực và cả về tâm lý và xã hội. Bệnh nhân đau mạn tính thường đi điều trị nhiều nơi với nhiều thầy thuốc và các phương pháp điều trị khác nhau nhưng cuối cùng chứng đau vẫn không khỏi hoặc không thuyên giảm. Điều đó làm cho bệnh nhân lo lắng và mất niềm tin và làm cho bệnh tình ngày càng trầm trọng hơn.
Đau mạn tính bao gồm:
Đau lưng và cổ (back and neck pain).
Đau cơ (muscular pain).
Đau sẹo (scar pain).
Đau mặt (facial pain).
Đau khung chậu mạn tính (chronic pelvic pain).
Đau do nguyên nhân thần kinh (neuropathic pain)…
Theo quy ước cổ điển người ta ấn định giới hạn phân cách đau cấp và mạn tính là giữa 3 và 6 tháng. Có thể so sánh đau cấp và đau mạn như sau:

Đau cấp:
Mục đích sinh học: Có ích – Bảo vệ Vô ích
Cơ chế gây đau:  Đơn yếu tố
Phản ứng của cơ thể: Phản ứng lại
Yếu tố cảm xúc: Lo lắng
Hành vi thái độ: Phản ứng
Kiểu mẫu Y học kinh điển: Đa chiều thực thể
Mục đích điều trị: Chữa khỏi

Đau mạn:
Mục đích sinh học: Bảo vệ Vô ích
Cơ chế gây đau: Đa yếu tố
Phản ứng của cơ thể: Thích nghi dần
Yếu tố cảm xúc : Trầm cảm
Hành vi thái độ: Tìm hiểu
Kiểu mẫu Y học kinh điển: Tâm lý – xã hội
Mục đích điều trị: Tái thích ứng

– Đau ung thư và HIV.

*Đau ung thư:
Có thể là đau mạn tính hoặc cấp tính do sự xâm lấn và đè ép của tế bào ung thư vào mô lành gây tổn thương mô và kích thích thụ cảm thể thân thể và nội tạng. Đau có tính chất đau nhức đập nẩy dao đâm chật chội day dứt…
Có thể như chứng đau thần kinh (trung ương hoặc ngoại vi): đau bỏng rát ù tai hoặc tê liệt đau xé đau điện giật…
*Đau do bệnh HIV:
Hệ tiêu hóa: đau miệng họng nấm miệng loét miệng đau và khó nuốt đi lỏng…
Hệ thần kinh: đau đầu đau thần kinh ngoại vi không đối xứng đau đa dây thần kinh.
Hệ cơ xương: viêm khớp đau khớp và cơ do nhiều nguyên nhân khác…


c) Phân loại đau theo khu trú.
– Đau cục bộ (local pain).
Là khi khu trú đau cảm thấy trùng với khu trú quá trình bệnh lý. Chẳng hạn trong viêm dây thần kinh đau cảm thấy suốt dọc dây thần kinh tương ứng đúng với vị trí giải phẫu của dây thần kinh đó.

– Đau xuất chiếu (referred pain).
Là khu trú đau không trùng với khu trú của kích thích tại chỗ trong hệ cảm giác. Ví dụ trong chấn thương hoặc u ở vùng đầu gần trung tâm của thân thần kinh cảm giác đau lại xuất hiện ở vùng phân bố của đầu ngoại vi xa trung tâm của dây thần kinh đó.
Như trong chấn thương thần kinh trụ ở vùng khớp khuỷu lại thấy đau ở ngón tay IV và V; kích thích các rễ sau cảm giác của tủy sống gây đau xuất chiếu (đau bắn tia) ở các chi hoặc vành đai quanh thân mà rễ thần kinh đó chi phối.

Một ví dụ nữa về đau kiểu này là hiện tượng đau “chi ma” ở người bị cắt cụt chi thể sự kích thích những dây thần kinh bị cắt đứt ở mỏm cụt gây một cảm giác ảo đau ở bộ phận ngoại vi của chi mà thực tế không còn nữa.

-Đau lan xiên.
Là cảm giác đau gây ra do sự lan tỏa từ một nhánh dây thần kinh này sang một nhánh thần kinh khác. Ví dụ khi kích thích đau ở một trong ba nhánh của dây thần kinh sinh ba (dây V) có thể đau lan sang vùng phân bố của hai nhánh kia; một trong những triệu chứng ung thư thanh quản có thể là đau tai do kích thích dây thần kinh thanh quản trên (là một nhánh của dây X cảm giác của thanh quản) đau lan sang vùng nhánh tai cũng của dây X phân bố cho phần sau của ống tai ngoài.

– Đau phản chiếu (reflected pain).
Cũng là một kiểu đau lan xiên nhưng ở đây kích thích đau xuất phát từ nội tạng được lan xiên đến một vùng da nào đó. Hiện tượng này được giải thích bằng thuyết phản chiếu (còn gọi là cơ chế phản xạ đốt đoạn): Tại lớp V sừng sau tủy sống có những neurone đau không đặc hiệu gọi là neurone hội tụ tại đây sẽ hội tụ những đường cảm giác đau hướng tâm xuất phát từ da cơ xương và vùng nội tạng làm cho não khi tiếp nhận thông tin từ dưới lên sẽ không phân biệt được đau có nguồn gốc ở đâu và thường được hiểu nhầm là đau xuất phát từ vùng da tương ứng. Kiểu đau này mang tên hiện tượng cảm giác – nội tạng còn khu vực da xuất hiện đau gọi là vùng Zakharin Head.

 

B) Quan niệm đau nhức của Y học cổ truyền Á đông (Đông Y)

Đau nhức Đông y gọi là chứng Thống Tý (Đau tê) chứng đau nhức theo lý luận của Đông Y  chỉ xác định như chứng đau nhức của Phong Thấp. Được chia làm các thể sau:
1.Hành thống (đau di chuyển khắp nơi)
2.Tý thống ( đau buốt tê)
3.Trước thống (đau bại xuội)
4.Nhiệt thống (đau do uất kết phát nhiệt)

Nguyên nhân là do chính khí bị suy hư tà khí lộng hành gây nên khí hư huyết uất trệ khí huyết không lưu thông bị bế tắc trong huyết mạch mà gây nên đau nhức và tê buốt. Chủ yếu là do bốn loại tà khí “Phong” “Hàn” “Thấp” “Nhiệt” (Gió Lạnh Ẩm Nóng) thừa cơ xâm nhập kinh lộ cơ nhục khớp xương làm tổn thương huyết mạch và kinh mạch mà gây nên. Biện pháp trị liệu là hoạt huyết đả thông kinh mạch khu trục các loại tà khí Phong- Hàn -Thấp-  Nhiệt ra khỏi cơ thể là hết bệnh

Một quan niệm khác của Khí công dưỡng sinh cho rằng đau nhức là do nguyên nhân âm dương không điều hòa làm cho dòng sinh lực Huyết sinh Tinh Tinh sinh Khí Khí sinh Thần bị gián đoạn hay sai lệch bế tắc ở một khâu nào đó mà sinh ra chứng đau nhức ví dụ như Huyết trệ (uất kết nhiễm độc) hay Tinh sai (ăn uống và thu nạp chất không tinh khiết)   hay Khí thiếu (Chính khí suy sức đề kháng yếu) và Thần hư mà gây nên. Biện pháp trị liệu là điều hòa lại khâu bị rối loạn sai lệch trong dòng sinh lực (chân khí) là hết bệnh.

Như vậy qua hai khái niệm về đau nhức của Tây Y và Đông y chúng ta thấy Đông Y có quan niệm về của đau nhức khác hẳn Tây y. Những cơ sở bệnh lý của đau nhức mà Tây y có biện pháp dập tắt (bằng hóa dược chất an thần xoa dịu thần kinh….) thì Đông y chỉ coi đó là những biểu hiện hậu quả của những nguyên nhân như Huyết trệ khí hư Kinh mạch không lưu thông….cho nên biện pháp trị liệu không chỉ dừng lại ở chổ tạm thời xóa bỏ những hậu quả bởi vì có xóa bỏ dập tất được biểu hiện của triệu chứng (hành thống tý thống trước thống nhiệt thống…) nhưng nguyên nhân là gốc bệnh như tà khí Phong Hàn Thấp Nhiệt vẫn đang hành hại trong kinh mạch vẫn còn làm cho khí huyết bị bế tắc thì cơn đau vẫn sẽ tái hiện lại mà thôi. Bởi vì có lý luận “khác thường” nhưng “chân lý” đó cho nên Đông Y mới có phương pháp trị liệu đau nhức có hiệu quả hơn Tây y là vậy.

Để thấu rõ thực tế hơn chúng ta có lẽ phải tìm hiểu thêm về hai phương pháp trị bệnh Phong Thấp của hai nền y học thì mới vỡ lẽ ra được về luận cứ này. Bởi vì bệnh Phong Thấp cũng là một hội chứng đau nhức mà hiện này Tây y vẫn đang còn chập choạng trong con đường nghiên cứu. Trong khi Đông y đã có những liệu pháp dứt điểm được bệnh này….

(Còn nữa)

20.01.11
QN-TN

SHARE