Viết Trong Đêm Giáng Sinh
Trước đây năm bảy năm về trước đêm Giáng Sinh tôi thường về Grimma một thành phố nhỏ gần thành phố Leipzig ở tiểu bang Sachsen để dự đám giổ cụ thân sinh của người bạn. Là đám giổ nhằm vào đêm Noel cho nên cũng là một dịp để bạn bè một thuở tề tựu về hội họp gặp mặt luôn thể. Từ ngày về Hamburg đến nay dễ có 6 7 năm nay tôi không còn về tề tựu vào dịp này ở Grimma nữa.
Người bạn này là anh ruột của Ba Đen người tôi thường kể lại trong nhiều tản văn của tôi. Anh bạn này tên là Gia Cần là đội trưởng phiên dịch trong các đoàn xuất khẩu lao động hồi Đông Đức cũ hiện nay là một doanh nghiệp trong nghề kinh doanh dịch vụ ăn uống.
Gia Cần có liên quan đến một giai đoạn khá “hoành tráng” trong nghề nghiệp của tôi. Chính hắn là người giới thiệu bệnh nhân ung thư máu đầu tiên mà tôi trực tiếp “cãi tử hoàn sinh” cho họ.
Năm nay Giáng Sinh nằm vễnh râu ở Hamburg nhớ bạn bè cũ một thời nên muốn viết một bài giới thiệu về một phương pháp điều trị bệnh ung thư rất có hiệu quả mà tôi đã sử dụng và đã đưa ít nhất là 10 người từ cõi chết trở về vì bị căn bệnh hiểm nghèo: bệnh Ung Thư Máu hay còn gọi là bệnh bạch cầu bệnh máu trắng.
CÃI TỬ HOÀN SINH CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ MÁU (Bệnh Bạch Cầu)
Phần1: Sơ lược về Ung thư máu:
Ung thư bạch cầu hay còn có tên gọi ngắn gọn là bệnh ung thư máu (Leukomie Leukemie) hay bệnh bạch cầu (máu trắng) thuộc loại ung thư ác tính.
Căn bệnh này là hiện tượng khi bạch cầu trong cơ thể người bệnh tăng đột biến. Nguyên nhân của bệnh chưa được xác định nhưng có thể là do các tác động của môi trường như ô nhiễm hóa học hay nhiễm chất phóng xạ hoặc cũng có thể là do di truyền. Bạch cầu trong cơ thể vốn đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ cơ thể nên chúng cũng khá “hung dữ” đặc biệt khi loại tế bào này bị tăng số lượng một cách đột biến sẽ làm chúng thiếu “thức ăn” và có hiện tượng ăn hồng cầu. Hồng cầu sẽ bị phá hủy dần dần vì vậy người bệnh sẽ có dấu hiệu bị thiếu máu dẫn đến chết.
Chúng ta tạm hiểu nôm na như vầy do một nguyên nhân gì đó (nhiễm độc kim loại nặng nhiễm phóng xạ chất độc màu da cam…hay do di truyền). Tự nhiên số lượng bạch cầu trong cơ thể tăng lên đột ngột. Bạch cầu trong máu có nhiệm vụ như những “lính biên phòng” “đội cận vệ”…luôn luôn túc trực sẵn sàng chờ có những sinh vật lạ như Vi rút vi khuẫn xâm nhập vào là lao tới tiêu diệt ngay. Đây là một đội “cảm tử quân” kiên dũng của cơ thể. Nhưng do đội quân này tự nhiên bị đột biến tăng quá nhanh quá nhiều lần so với số lượng cho phép. Thế là những “ưu binh” này trở thành những “sát thủ” những “lực lượng phản loạn”. Chúng đói ăn và quay sang tấn công và “nhậu luôn” xực hết luôn kẻ đáng lý ra chúng phải bảo vệ đó là Hồng huyết cầu. Hồng huyết cầu sinh ra được bao nhiêu thì bị bọn “kiêu binh” nổi loạn bạch cầu xơi tái hết. Vậy là sinh ra chứng bần huyết Hồng huyết cầu suy giảm bạch cầu tăng. Máu khôn còn đỏ mà thành “sắc aó” bạch của đội quân này. Nên còn gọi là bệnh máu trắng.
Đây cũng là căn bệnh ung thư duy nhất không tạo ra u (ung bướu).
Hiện nay căn bệnh này đã có một số biện pháp điều trị nhưng hiệu quả không cao. Người dân ở các vùng nhiễm phóng xạ thường có tỉ lệ bị bệnh này rất cao (như 2 thành phố Hiroshima và Nagasaki sau thời chiến tranh đệ nhị thế giới ở Nhật).
Gần đây có một số nghiên cứu kết luận rằng bệnh ung thư bạch cầu hay bạch cầu cấp đều không qua yếu tố di truyền
Ung thư máu được phân loại như sau:
Thể Lymphoid leukemia: Lymphatic Lymphoblastic Lymphocytic Lymphogenous Granulocytic
Thể Myeloid leukemia: Granulocytic Myeloblastic Myelocytic Myelogenous Myelomonocytic Myelosclerotic Myelosis
Thể Monocytic leukemia Histiocytic Monoblastic Monocytoid
Triệu chứng
Khi dạng bạch cầu ung thư phát triển nhanh trong tủy làm đau nhức đồng thời chiếm chỗ và làm giảm sự phát triển những tế bào máu bình thường khác.
Bệnh nhân có thể có những chứng sau:
do sức công phá trong tủy: sốt cảm lạnh đau đầu khớp.
do thiếu hồng cầu: mệt mỏi yếu sức da đổi thành màu trắng nhạt.
do bạch cầu không bình thường: hay bị nhiễm trùng.
do giảm khả năng làm đông máu: chảy máu nướu răng dễ bầm.
biếng ăn sút kí.
Nếu bệnh nhân là nữ thì sẽ có hiện tượng ra mồ hôi về ban đêm.
Điều trị
Hiện tại các phương pháp điều trị bệnh ung thư máu chủ yếu vẫn là thay tủy xương của người bệnh với tủy xương của một người hiến có tủy xương phù hợp (thích hợp nhất là người có chung huyết thống với người bệnh) để thay thế phần tủy xương đã bị hư hỏng và kích thích sinh ra hồng cầu cũng như kìm hãm sự gia tăng đột biến của bạch cầu. Tuy nhiên dù có điều trị bằng phương pháp nào thì khả năng thành công cũng rất thấp chỉ khoảng 10% và dù cho có thành công thì khả năng bệnh tái phát cũng rất lớn (khoảng từ 3 đến 5 năm)
Hiện nay ngoài cách ghép tủy (cuống rốn cấy tế bào gốc….) còn có thể dùng hóa trị liệu cho tới nay cách dùng hóa trị vẫn có triển vọng rất tốt cho các bệnh nhân. Ngoài ra đối với dòng Lympho còn có thể xạ trị màng não ngăn ngừa tế bào phát triển lên não. Đối với những bệnh nhân có quá trình điều trị bệnh tốt sức đề kháng tốt thích nghi với môi trường tốt và nằm trong khoảng thời gian điều trị từ 3-5 năm có thể bình phục (lược thảo theo bách khoa toàn thư)
Phần2: Ung thư theo quan niệm Y lý cổ truyền:
Ung thư máu hay là bệnh Ung Thư theo ngôn ngữ Y khoa hiện đại nói chung (cancer carcinoma). Theo bệnh lý thì hoàn toàn khác với bệnh lý “Ung-Thư” trong ý lý cổ truyền. Có nghĩa là cùng một tên gọi như nhau nhưng bệnh lý hoàn toàn khác nhau.
Nếu y học hiện đại coi ung thư (cancer carcinoma) là một căn bệnh ác tính khó trị liệu và thường dẫn đến tử vong thì y học cổ truyền phương Đông lại quan niệm về căn bệnh được gọi là Ung- Thư với nội dung hoàn toàn khác biệt.
So sánh hai cách gọi thì đồng âm nhưng hoàn toàn khác nghĩa. Các bạn và ngay cả những người mới nhập môn Đông y cũng cần phải lưu ý việc này. Vì rất dễ nhầm lẫn những phương toa đặc trị Ung-Thư trong các y thư cổ là những toa thuốc “bí truyền” đặc trị bệnh Ung thư hiện đại (cancer carcinoma)
Việc dùng danh từ ung thư theo âm Hán Việt trong các Y thư vốn được dùng để chỉ những chứng bệnh thông thường trong y học cổ truyền. Nếu dịch các từ cancer hoặc carcinoma của y học hiện đại một cách kém cẩn thận sẽ dẫn đến nhiều sự ngộ nhận và hiểu lầm rất nguy hiểm.
Khái niệm ung thư trong y học cổ truyền phương Đông là một khái niệm bệnh lý hoàn toàn khác với khái niệm Ung thư mà người ta thường dùng hiện nay. Khái niệm này chỉ để mô tả những căn bệnh về tà khí rất thông thường thậm chí là khá đơn giản trong hệ thống bệnh lý Á đông.
Có thể nói danh từ ung thư đã được ghi lại sớm nhất trong Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn một bộ sách y cổ nhất của phương Đông và có thể nói là bộ sách nhập môn cho những người theo học Đông Y.
Trong phần Linh khu Ung thư thiên ở sách này có đoạn chép. Hoàng Đế đã hỏi Kỳ Bá : “Phu tử ngôn ung thư hà dĩ biệt chi ?” (Lão sư nói về ung với thư lấy gì để phân biệt ?).
Sau này nhiều y thư cổ khác như Vệ Tề Bảo Thư Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận Y Tông Kim Giám Ngoại Khoa Chính Tông Dương Y Chuẩn Thằng Ung Thư Thần Diệu Chân Kinh. Thái Bảo Thần Phương và kể cả Hải Thượng Lãn Ông Y Tâm Lĩnh Thương Hàn Luận cũng đều đã đề cập đến với những kiến giải rất sâu sắc về Ung-Thư.
Gọi chung là Ung- Thư nhưng kỳ thực đó là hai bệnh danh khác nhau chỉ có chung một số nguyên nhân gây bệnh giống nhau mà thôi. Đó là “ung chứng” và “thư chứng”.
Ung là chỉ loại mụt nhọt (áp-xe surface sore internal abscess) phát sinh cấp tính ở giữa da cơ với tốc độ nhanh sưng nóng đỏ đau nổi cao lên có giới hạn rõ ràng dễ làm mủ và dễ vỡ khi vỡ mủ rồi thì dễ hàn miệng tùy theo mức độ nặng nhẹ mà có hoặc không có các chứng trạng toàn thân như phát sốt sợ lạnh môi khô miệng khát.
Theo các y văn cổ ung hàm nghĩa là khí huyết không thông vì độc tà ủng tắc.
Sách Nội kinh viết :” Dinh khí khổ lưu vu kinh mạch chi trung tắc huyết khấp nhi bất hành bất hành tắc vệ khí tòng chi nhi bất thông ủng át nhi bất đắc hành cố nhiệt. Đại nhiệt bất chỉ nhiệt thắng tắc nhục hủ nhục hủ tắc vi nùng nhiên bất năng hãm cốt tủy bất vi tiêu khô ngũ tạng bất vi thương cố mệnh viết ung” (Dinh khí ở trong kinh mạch khi nó lưu hành không được thông sướng làm cho vệ khí bị ngăn trở nên mới phát sốt. Khi sốt cao không dứt thế nhiệt quá mạnh làm cho thịt nát hóa thành mủ nhưng nhiệt độc chỉ ở phần ngoài không hãm vào trong nên xương tủy và ngũ tạng không bị tổn thương thì gọi là ung).
Sách Cảnh Nhạc Toàn Thư thì cho rằng : ung là do dương độc nhiệt tà ủng tắc phần ngoài gây nên nếu thế nhiệt mạnh thì sưng nề nhiều sắc da đỏ bóng đau kịch liệt dễ hóa mủ mà cũng dễ thu miệng phát nhanh mà cũng dễ khỏi nhanh.
Theo cổ nhân ung là do ngoại cảm lục dâm (sáu thứ tà khí bên ngoài) ăn uống quá nhiều đồ cay nóng và bổ béo thấp nhiệt hỏa độc uất kết ở bên trong khiến cho nhiệt độc tà khí ủng trệ làm dinh vệ bất hòa kinh lạc trở tắc khí huyết ngưng trệ mà thành.
Tùy theo vị trí bị bệnh mà tên gọi và cơ chế bệnh sinh cũng có những điểm khác nhau. Nếu bị ở cổ thì gọi là cảnh ung ở nách gọi là dịch ung ở rốn gọi là tề ung ở hông gọi là khoa ung ở vú gọi là nhũ ung ở hậu môn gọi là giang ung.
Nếu tổn thương nông thì gọi là ngoại ung nếu sâu thì gọi là nội ung. Nếu bị ở phần trên cơ thể (đầu mặt cổ và tay) thì thường kèm theo phong tà ở phần giữa cơ thể (ngực lưng và bụng) thì thường có khí uất và hỏa uất ở phần dưới cơ thể thì thường kèm theo thấp tà.
Ngoài ra còn có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo đặc điểm và tính chất như : ung thũng là nhọt sưng ung nùng là nhọt đã hóa mủ ung lâu là mụn nhọt vỡ lâu không hết mủ thành lỗ dò ung độc là nhọt độc ung sang là mụn nhọt ở nông đã vỡ mủ tạo vết loét lâu liền.
Thư là chỉ loại nhọt chìm sâu ở trong (deep-seated sore) phát sinh ở giữa gân cơ và xương đau âm ỉ khi chưa thành mủ thì khó tiêu đã thành mủ rồi thì khó vỡ khi đã vỡ thì khó liền miệng mủ thường trong loãng căn cứ vào lúc khởi phát có đầu hay không có đầu mà chia thành hai loại : đầu thư và vô đầu thư (nhọt độc và ap-xe sâu).
Tuy nhiên xung quanh khái niệm về thư các y thư và y gia mỗi thời kỳ cũng có nhiều kiến giải và cách gọi khác nhau.
Sách Nội Kinh viết :” Nhiệt khí thuần thịnh hạ hãm cơ phu cân tủy khô nội liên ngũ tạng khí huyết kiệt đương kỳ ung hạ cân cốt lương nhục giai vô dư cố mệnh viết thư. Thư giả thượng chi bì yếu dĩ kiên thượng như ngưu lãnh chi bì ; ung giả kỳ bì thượng bạc dĩ trạch thử kỳ hầu dã ” (Uất nhiệt đốt mạnh mủ độc hãm vào trong da thịt làm cho gân héo tủy khô lại hướng sâu vào trong ảnh hưởng đến ngũ tạng khiến khí huyết khô kiệt khi đã ở tầng sâu thì gân xương cơ nhục đều hủ nát gọi là thư. Đặc trưng của thư là sắc da tối đen không tươi mà dày giống như là ở dưới cổ trâu ; đặc trưng của ung là da mỏng và sáng bóng).
Cũng trong Nội Kinh còn có danh từ mãnh thư để chỉ một loại tổn thương viêm ở cằm trông giống như tổ ong sau này gọi là tả hầu ung.
Sách Y Tông Kim Giám có khái niệm cầm thư để chỉ một loại tổn thương ở sống lưng gọi là đan độc (một loại bệnh nhiễm khuẩn cấp tính ở ngoài da có đặc điểm vùng da nổi lên những quầng đỏ tươi và nóng sau lan dần ra nhiều chỗ thường kèm theo sốt sợ lạnh đau đầu đau mình mẩy trẻ em thì quấy khóc kinh giật không yên) y học hiện đại gọi là viêm quầng (erisipelas).
Sách Ngoại Khoa Đại Thành thì có các bệnh danh như điều thư đôn thư tiêu thư để chỉ những đinh thũng ở chi trên (là loại nhọt nhỏ nhưng rễ sâu viêm tấy phát triển nhanh làm mủ ngoài da tiên lượng nặng hình như cái đinh nên gọi là đinh thũng) còn những đinh nhọt mọc ở phần dưới má và dưới mũi thì gọi là đinh thư.
Ngoài ra trong các y thư cổ khác còn ghi lại khá nhiều bệnh danh thuộc loại thư như : dịch thư (lao hạch nách) cổ âm thư (lao hạch đùi) và hiếp lặc thư (lao thành ngực và xương sườn). Những chứng này về sau tùy theo tính chất mà quy vào hai chứng bệnh loa lịch (lao hạch) và lưu đàm (lao xương khớp).
Sách Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận có bệnh danh nhũ thư thực chất là một dạng nhũ ung nhưng thương tổn có đầu cứng hơn và không dễ vỡ loét.
Sách Lưu Quyên Tử Quỉ Di Phương còn có bệnh danh thoát thư hay thoát cốt thư tức là bệnh viêm tắc động mạch của y học hiện đại do nhiều nguyên nhân gây nên với chứng trạng chung là hoại tử đầu chi do tắc mạch.
Như vậy có thể thấy bệnh danh ung thư trong y học cổ truyền đã có một lịch sử lâu đời thường dùng để chỉ các loại mụn nhọt nói chung và sau này còn được sử dụng để chỉ một số bệnh khác như lao hạch lao xương khớp viêm tắc động mạch.
Khái niệm này có nội dung hoàn toàn khác so với bệnh danh ung thư của y học hiện đại và nếu có cho là giống nhau thì cũng chỉ trong một phạm vi rất hẹp cực kỳ hạn hẹp. Xem xét thấu đáo cả về lý thuyết và thực tiễn thì bệnh ung thư của Tây y thuộc phạm vi và có mối liên hệ tương đồng với một số bệnh chứng trong Đông Y là chứng Nham và chứng Thũng Lựu chứng Uất Sạ chứng Hoại Huyết chứng Kết Thũng…..
Tương tự vậy Bệnh Ung máu (bệnh Bạch cầu Máu trắng…) Trong y học cổ truyền không có tên bệnh nào có tên gọi vậy cả. Căn cứ vào biểu hiện lâm sàng có thể xếp nó vào các loại hư lao cấp lao nhiệt lao cho đến huyết chứng huy tích chứng uất kết bần huyết.
Bên ngoài thì cảm độc tà và nhiệt tà bên trong thì tổn thương vì làm việc quá mệt mỏi đói no không điều hòa phòng sự quá nhiều bị thất tình tổn hại tiên thiên bẩm sinh không đủ tất cả đều có thể gây ra bệnh này.
(Tư liệu sưu tập từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau)
Phần3: Phần Chính
Tôi Cãi Tử Hoàn Sinh Cho Bệnh Ung Thư Máu Như Thế Nào?
Vào tháng 10 năm 1997 Gia Cần gọi điện thoại cho tôi hỏi rằng có vợ một người bạn Đức bị bệnh Ung thư máu bệnh viện trả về sau khi từ mỗi tháng 1 lần truyền 4 lít máu đến mỗi tuần 1 lần rồi đến mỗi tuần 2 lần mỗi lần 4 lít máu. Giáo sư chuyên môn trực tiếp điều trị cho bà ta khuyên “nên tìm nhà thờ để cầu nguyện là vừa” còn điều gì chưa thực hiện còn mong muốn điều gì thì nên làm nhanh vì có bà ta có thể sống không còn quá 5 tháng nữa. GC hỏi liệu có thể giúp gì được không có còn nước còn tát không. Tôi trả lời khó có thể trả lời được vì bệnh ung thư máu Đông Y chẩn trị là bệnh Bần Huyết. Mà bệnh này thì điều trị không khó hồi theo sư phụ học nghề tớ thấy ổng điều trị còn dễ hơn trị thương hàn hay cảm cúm nữa. GC nó tôi có thể sang bên đó coi giúp được không (Gia Cần là người đã từng chứng kiến thủ pháp chữa dứt bệnh Thiên đầu thống (Migräne) cho vợ của luật sư hắn ta chỉ qua 3 lần châm của tôi. Nên hắn rất tín dụng tôi). Tôi trả lời nếu họ sang chỗ tôi thì được vì tôi không có điều kiện sang bên đó.
Hồi đó tôi đang đi học Y và đang làm việc dưới trướng của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Trang tại thành phố Göttingen. Tiến Sĩ NXT là một bác sĩ mang quốc tịch Đức gốc người Mỹ Tho (Dr. Nguyễn Xuân Trang thuộc Đảng CDU là người sáng lập Hội Những Người Đức- Việt Dân Chủ một tổ chức thuộc Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Đức có nhiều đóng góp Nhân Đạo cho Việt Nam). Trong hai năm 1996 và 1997 không biết do vận xui gì mà tôi đã tàn phá hết 5 chiếc ô tô. Khi thì húc nhau khi thì tự húc vào cột đèn khi thì lao vọt ra khỏi đường cao tốc xe nát bấy nhưng người thì không hề bị một thương tích nhỏ. 5 chiếc ô tô phải vào nằm nghĩa địa xe trong chưa đầy 2 năm nên tôi được mọi người quen biết tấn phong là “dũng sĩ diệt xe cơ giới” là vậy.
Thời gian mà Gia Cần gọi là đúng vào thời gian xui xẻo ấy của tôi. Vì vậy tôi không còn có phương tiện để sang bên Sachsen được. Từ Göttingen sang Leipzig cở độ 350 cây số thôi.
Người bạn Đức của Gia Cần là một thương gia đang phát đạt trong nghề đầu tư các hội chợ. Ông ta nghe GC quảng cáo về tôi nên quyết định đưa vợ sang thử vận may cuối cùng.
Vợ ông ta lúc ấy đã rất yếu chỉ còn thoi thóp chờ từng ngày. Ông ta đưa từ Leipzig sang Göttingen mất gần 8 tiếng đồng hồ vì vừa đi vừa nghĩ lại chạy đường làng vì hồi ấy chưa có đường cao tốc A14.
Khi bắt mạch cho Maria (người bị bệnh ung thư máu). Đúng như tôi dự đoán tất cả những triệu chứng mạch lý và biểu hiện bệnh lý đúng như bệnh Bần Huyết mà ngày xưa thầy tôi thường trị cho dân nghèo ở các vùng núi chúng tôi thường đi qua. Khi xem bệnh xong tôi mĩm cười nói với ông Dittmar (bạn Gia Cần): “Rất đơn giản chữa trị còn dễ hơn chữa bệnh cảm nữa ông cứ yên tâm bà nhà sẽ chuyển bệnh trong vòng 2 tuần hết bệnh trong vòng 1 tháng sau 3 tháng thì hoàn toàn khoẻ mạnh như một người bình thường”.
Tôi cũng không biết vì sao lúc đó tôi tự tin đến thế có lẽ vì tôi muốn lấy lòng tin khát sống và hy vọng sống của người bệnh. Và cũng có thể do một nhân duyên huyền bí nào đó cho tôi sự tự tin đến ngạo nghễ như vậy. Một căn bệnh nan y của thế kỹ đã qua biết bao nhiêu bệnh việt qua bao nhiêu phương pháp điều trị hiện đại nay bị bệnh viện trả về chờ chết mà tôi lại thản nhiên nói trị dễ còn hơn trị cảm cúm nữa thì quả thật là quá hoang tưởng. Tôi tin ông bà Dittmar cũng sẽ nghĩ như vậy.
Đã có sẵn kinh nghiệm chữa trị bệnh Bần Huyết tôi phác thảo một liệu trình trị bệnh ngay lập tức. Dùng ấn ma pháp đánh dọc hai dãy Du huyệt sau lưng để chuyển hóa dinh dưỡng và kích thích sự sinh huyết của tủy sống. Cho uống Hắc Hoàng Kỳ Phương để hoạt huyết và tạo máu từ tủy sống. Vì bệnh nhân quá suy nhược cho nên bồi bổ thêm Thập Toàn Đại Bổ hầm với khấu đuôi bò. Xong
Ông Dittmar chở vợ mỗi tuần 2 lần từ Leipzig sang cho tôi dụng Y Hắc Hoàng Kỳ Phương thì tôi đã pha chế sẳn ngày uống 3 lần. Mỗi tuần uống canh Thập Toàn Đại Bổ hầm khấu đuôi bò 3 lần.
Sau hai tuần bệnh tình thuyên chuyển rất tốt bà Maria không còn mệt mỏi hổn hà hổn hển nữa. Sau 3 tuần thì ngưng truyền máu. Sau 3 tháng gần như khỏi bệnh. Dùng Hắc Hoàng Kỳ Phương đến tháng thứ 6 thì ngưng. Bà Maria bình phục hoàn toàn như một người bình thường. Và sống đến bây giờ là đã là 13 năm và sức khoẻ rất tốt.
Sau vụ này báo chí Sachsen có viết bài nói đến phép lạ của một người Việt chữa bệnh Ung thư máu. Và từ đó danh tiếng của tôi khá “ồn ào” trong cộng đồng người Việt ở khu vực bên đó. (Hà hà…lúc lão Ba Đen và Gia Cần đọc đến đây thì cũng nên còm một phát báo tin sức khoẻ của bà Maria như thế nào chứ nhỉ lâu lắm rồi tớ không biết tin tức về họ)
Bệnh nhân thứ 2 là một kỹ sư chế tạo máy sinh ngày 20.06. 1964 đang làm việc cho hãng Airbus A380 ở Hamburg. Ông này có tình trạng cũng giống hệt như bà bệnh nhân trên kia. Cũng bị ung thư máu đã qua hóa trị nhiều lần và cũng đang trong tình trạng mỗi tuần truyền 4 lít máu. Ông này thì còn tệ hơn là bác sĩ nói may lắm thì chỉ còn sống 2 tháng nữa và hoàn toàn không còn hy vọng cứu chữa tiếp tục trừ phi có phép mầu nhiệm của Đức Chúa Trời.
Ông này được đưa đến cơ sở nơi tôi đang làm việc. Hồi đó năm 2007 tôi đang phụ trách chuyên môn ở Viện Châm Cứu Trung Y (Institut für Chinesische Akypunktur). Họ cũng coi như là đằng nào cũng chết đến thử một lần xem sao.
Vẫn là phương pháp cũ đánh dọc sống lưng bằng phép án ma (xoa bóp). Cho uống Hắc Hoàng Kỳ Phương. Vì bệnh nhân chưa đến nổi kiệt sức hoàn toàn nên tôi không cho dùng canh Thập Toàn Đại Bổ hầm khấu đuôi bò nữa mà cho uống thêm trà Linh Chi nguyên chất 100% tự nhiên. Có nghĩa là dùng nấm Linh Chi cả tai khô xay bột và pha như pha cà phê pha trà cho bệnh nhân uống. Ông này vì đã qua điều trị hoá trị nên việc hấp thụ Hắc Hoàng Kỳ Phương hơi khó khăn. Vì vậy phải hơn 6 tuần mới ngưng truyền máu và đến gần 8 tháng mới bình phục hoàn toàn.
Uống Hắc Hoàng Kỳ Phương do tôi bào chế đến tháng thứ 3 thì ngưng. Vì việc bào chế và nhập nguyên liệu tương đối khó khăn. Và lúc đó hãng Tisso cũng vừa sản xuất ra viên con nhộng Pro Curcumin Komplet và đã tung ra thị trường. Viên Pro Curcumin được sản xuất hoàn toàn đúng như thành phần của Hắc Hoàng Kỳ Phương không sai một phân lượng nào. Vì vậy tôi cho bệnh nhân này uống viên Procurcumin thay Hắc Hoàng Kỳ Phương.
Ông này là người Nga gốc Đức vốn sinh trưởng ở nước Kasachstan. Ông ta thấy ở cố hương ông ta có rất nhiều loại nấm giống nấm Linh Chi nên vội vả về quê hái sang một ít cho tôi thẩm định. Tôi thấy đó đúng là nấm Linh Chi thật mà lại là loại cực hiếm Huyết Linh Chi. Vì vậy ông ta đã về quê và nhờ một công ty dược phẩm ở đó bào chế nguyên chất đóng thành viên con nhộng và nhập ngược lại Đức bằng đường bán buôn trên Intenet.
Đến nay ông ta đã hoàn toàn bình phục và đã đi làm lại bình thường. Phép màu của Đức Chúa Trời ông ta thường nhắc lại chính là bột nghệ bột tam thất và nấm linh chi.
Bạn có thể gọi điện thoại hay gửi thư đến hỏi quá trình ông ta từ cõi chết trở về như thế nào và qua ông ta có thể biết đặt mua viên con nhộng làm từ nấm huyết linh chi từ địa chỉ nào để bảo đảm an toàn và chất lượng nhất.
Địa chỉ:
Niklaus Waldman
Scheidelharg 3a
21159 Hamburg- Germany
Tele: 0049407026431
(Với người này bạn có thể hỏi bằng 3 thứ tiếng Nga Đức Anh)
Bệnh nhân thứ 3 là một phụ nữ bị cũng bị bệnh Ung thư máu bà này còn có loại Carcinoma khác đã di căn vào xương. Bệnh viện cũng thông báo hết hy vọng. Hầu hết những bệnh nhân tìm đến tôi đều là những bệnh nhân đã bị bác sĩ “tuyên án tử hình”. Đó cũng là một đặc điểm của bệnh nhân Đức và có lẽ cũng là chung như vậy với những quốc gia châu Âu khác. Có bệnh đầu tiên là tới Tây Y hết thuốc chữa không còn hy vọng gì ở đó nữa mới tìm đến những phương pháp khác ngoài luồng của hệ thống bảo hiểm y tế chi phí.
Vẫn là Hắc Hoàng Kỳ Phương qua viên con nhộng Pro Curcumin von Tisso và trà nấm Linh Chi nguyên chất. Sau khi cắt được cơn bệnh nhờ uống thường xuyên hai thứ thuốc trên thì tôi cho bà này tập theo bộ khí công Thiên Lý Tiêu Dao nữa để phòng chống di chứng sau này. Hiên nay đã sau 3 năm trị liệu sức khoẻ của bà rất tốt qua nhiều lần kiểm tra thấy bệnh bạch cầu hoàn toàn đã biến mất.
Bạn có thể liên lạc với bà Doke để biết thêm kinh nghiệm:
Địa chỉ:
Dobke Claudia
Heirich-Geiek str 39
22549- Pinenberg
Tele:00494101514790
(Bằng tiếng Đức và tiếng Anh)
Một bệnh nữ bệnh nhân khác cũng bị bệnh bạch cầu thể Luymphoid. Thể có kèm theo ung thư hạch cũng được dùng phương pháp trên để trị liệu không những đã chấm dứt được tình trạng nguy hiểm bệnh theo hạch lên não mà cũng đã chấm dứt hoàn toàn triệu chứng của bệnh ung thư máu thể Lymphoid Leukemia.
Bạn cũng có thể liên lạc theo địa chỉ dưới đây để hỏi thêm kinh nghiệm:
Beukenberg Bettina
Flaßbarg 108c
22549 Hamburg-Germany
Tele: 0049408326261
(Bằng tiếng Đức hoặc tiếng Anh)
(Lưu ý các bạn cứ yên tâm những người này đã đồng ý trả lời và đồng ý cho công khai bệnh lý để nhằm mục đích nghiên cứu y tế nên trong khi tôi đưa ra tư liệu không bị phạm luật bảo mật tư liệu cá nhân đâu)
Và còn nhiều bệnh nhân khác nữa đến từ nhiều quốc gia khác nhau cũng được cãi tử hoàn sinh bằng phương pháp cực kỳ đơn giản này:
Đánh Cột Sống- Hắc Hoàng Kỳ Phương- Nấm Linh Chi
Một điều lưu ý cực kỳ quan trọng là liệu pháp này chỉ có tác dụng và có tác dụng với xác suất chữa khỏi bệnh rất cao gần như tuyệt đối với bệnh Ung thư máu (Leukemia) chứ có kết quả không rõ rệt với các loại ung thư khác.
Đây là một liệu pháp mà tôi đã sử dụng và đưa nhiều người từ cõi chết trở về các bạn có thể đưa liệu pháp này cho những lương y của bạn để dụng y nếu có người nhà mắc bệnh này. Thậm chí các bạn có thể đưa liệu pháp này ra cho những cơ sở Y tế của Việt Nam kiểm chứng và ứng dụng lâm sàng. Có thể với chức năng và qui mô nghiên cứu của họ họ có thể hoàn thành được một liệu pháp hữu hiệu cho chứng bệnh nan y này.
ĐÁNH CỘT SỐNG
Hệ thống Du huyệt như Tâm du Phế du Cách du Tiểu trường du Đại trường du Thận du Can du….thuộc bàng quang kinh là hệ thống huyệt theo y lý cổ có tác dụng bồi bổ vận chuyển khí huyết và tác dụng kích hoạt các cơ quan nội tạng tương ứng. Nó là chính là các huyệt kích thích sự hoạt huyết sinh tinh và bổ dưỡng cho cơ thể ngoài ra còn có các tác dụng kích hoạt hoạt động của tủy sống và não bộ. Dùng phép án ma day bấm các huyệt này có tác dụng sinh tinh bổ huyết hoạt khí rất hữu hiệu. Chính vì vậy mà đây chính là biện pháp đều tiên cần phải dụng thuật khi điều trị cho người bị bệnh Bần huyết.
HẮC HOÀNG KỲ PHƯƠNG
Hắc Hoàng Kỳ Phương là toa thuốc có xuất xứ từ Tây tạng. Vào những năm cuối của Thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 Y học cổ truyền của Tây tạng (Tibet Medizin) du nhập vào các nước Châu Âu rất rầm rộ. Đặc biệt là phương pháp chữa trị ung thư bằng thảo dược. Rất nhiều ca bệnh Ung thư đã được phương pháp đơn giản này chữa trị. Truyền hình báo chí và các tập san y tế đăng tải thường xuyên về vấn đề này. Và đến nay ngoài Y học cổ truyền Trung hoa đã được nền Y học hiện đại chấp nhận như một phương thức đặc biệt trong hệ thống Y khoa hiện hành thì Y học Tây tạng cũng được song song tồn tại hợp pháp với những luật định y tế của Châu Âu. Riêng với nước Đức về các loại thuốc thảo dược có xuất xứ từ Trung hoa Tây tạng nói riêng và từ nước ngoài nói chung thì không được các hệ thống bảo hiểm y tế thanh toán đó là luật y tế rất đặc biệt của Đức nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà sản xuất thuốc hoá dược. Vì vậy các loại thuốc có nguồn gốc từ thảo dược chỉ được sản xuất trong các Công ty thuốc phục vụ cho phương pháp trị bệnh tự nhiên. Các loại thuốc này lưu hành mặc dầu được phép sản xuất nhưng không được các tổ chức bảo hiểm y tế thanh toán. Vì vậy dù có hiệu quả cao nhưng cũng rất khó đến với người sử dụng. Chỉ khi bệnh nhân không còn hy vọng vào hiệu năng của Y học hiện đại nữa họ mới tìm đến bằng hầu bao của mình. Hắc Hoàng Kỳ Phương là toa thuốc cũng nằm trong tình trạng đó. Hiệu năng của nó có thể phòng ngừa được bệnh ung thư đối với các khối u phát hiện sớm không những ngăn chặn được sự phát triển mà còn có thể co kết khối u nhỏ lại. Đặc biệt rất hữu hiệu cho việc phòng ngừa di căn sau các phương pháp trị liệu của Tây y. Nhưng nó cũng chỉ đến với bệnh nhân khi họ không còn có thể bám víu vào Bệnh viện nhà nước được nữa.
Nội Dung Của Hắc Hoàng Kỳ Phương:
Hắc Hoàng Kỳ Phương là toa thuốc được thành lập chỉ từ 2 vị thuốc đó là Củ Tam Thất có màu đen nhánh như sừng (hắc) và Củ Nghệ có màu vàng (hoàng) ( ngạn ngữ : Đen như củ tam thất hoặc mặt vàng như nghệ): Toa thuốc có tác dụng tiêu ung chỉ huyết thông trệ trục ứ dùng để hoạt huyết đả thông các khối ứ bầm dập khu trục ung thủng. Tỷ lệ phối toa nguyên thuỷ là 6 nghệ 4 tam thất tuỳ chứng mà định liều dùng.
1) Tam Thất:
Cây tam thất còn có tên là Kim Bất Hoán Nhân Sâm Tam Thất Sâm Tam Thất thuộc họ Ngũ Gia Bì tên khoa học là Panax Noto Ginseng. Tam thất là củ rễ phơi khô của Cây Tam Thất Là vị thuốc rất quí vàng cũng không đổi được ( Kim Bất Hoán= Vàng không đổi). Tam thất có nhiều cách giải thích về tên gọi Bản thảo cương mục ghi là cây có 3 lá bên trái và 4 lá bên phải ( tam= 3 thất= 7). Có sách lại cho rằng lá tam thất có từ 3 đến 7 chét. Nhưng có lẽ chính xác nhất là do đặc điểm thu lượm của vị thuốc này Vì cây Tam thất từ khi gieo trồng cho đến khi ra hoa phải mất 3 năm mới ra hoa và phải sau 7 năm mới thu lượm được
Tam thất vị ngọt hơi đắng tính ôn vào hai kinh Can và Vị đặc biệt có tính dẫn tốt vào các phủ Kỳ hằng như Dạ con tuyến vú Não bộ. Có tác dụng hành ứ cầm máu tiêu thủng dùng chữa thổ huyết chảy máu cam lỵ ra máu ung thủng bị đòn tổn thương v..v..
Chiết xuất hoạt dược Arasapomin A và Arasapomin B từ Tam thất có tác dụng hoạt huyết tiêu ung tan ứ rất tốt. Tam thất có xuất xứ từ Vân nam Quảng tây Tứ xuyên Hồ bắc Giang tây (Trung quốc). Vân nam là tỉnh trồng nhiều nhất và tam thất Vân nam được các Lương y coi là tốt nhất. Ở nước ta cũng có trồng nhưng rất ít phân bố ở Mường khương Bát xát Phà lùng Hà giang..
Cần lưu ý tránh nhầm lẫn với cây Thổ tam thất thuộc họ Cúc trồng ở đồng bằng. Và cây Tam Thất Vũ Điệp là một loại cây không có củ khác.
2) Củ Nghê:
Nghệ còn có tên là Uất Kim Khương hoàng thuộc họ Gừng có tên khoa học là Curcuma Nghệ được trồng khắp nơi ở nước ta dùng làm gia vị và thuốc. Theo nghiên cứu mới nhất của Y học chất màu curcumin được chiết xuất từ nghệ(0 3) có khả năng thẩm thấu qua vách của tế bào và có tác dụng phục hồi những rối loạn phân huỷ năng lượng của tế bào nên có khả năng chống lại bệnh ung thư và bệnh giảm chức năng miễn dịch (HIV)
Theo tài liệu cổ nghệ có có vị cay và đắng tính ôn vào hai kinh Can và Tỳ nghệ có tác dụng phá ác huyết huyết tích kim sang và sinh cơ(lên da) chỉ huyết ( Đàn bà có thai và sau khi sinh mà không có nhiệt kết không nên dùng)
3) Cách dụng toa như sau:
a) Đối với bệnh ung thư đã qua điều trị xạ liệu hoá liệu hay giải phẫu để ngăn chặn di căn thì dùng ngay sau khi đã thực hiện liệu pháp. Cách dùng như sau:
Ngâm củ Tam thất vào nước cho mềm thái thật mỏng độ 12 gam thái nghệ tươi cũng từng lát mỏng độ 18 gam để chung hai thứ đem chưng cách thuỷ hay để vào bát hấp trên nồi cơm khi chín đem ra ăn khi đang nóng trước bữa ăn độ 2 tiếng đồng hồ có thể chiêu với nước cơm thì tốt hơn.
Ăn độ 21 ngày đến 1 tháng như vậy thì ngưng. Sau đó dùng toa tán bột cũng với tỷ lệ 4 phần Tam thất 6 phần Nghệ ngày 1 lần mỗi lần 7 gam chiêu với một muỗng cà phê dầu mè (vừng) mà nuốt.
b) Đối với bệnh ung thư giai đoạn 1 được phát hiện sớm thì thành phần có thay đổi 18 gam Tam thất và 18 gam Nghệ cách dùng như trên. Kết hợp với luyện tập Tĩnh công ( Lục tự Quyết) thì cách này có tác dụng ngăn chặn sự phát triển và co kết khối u rất tốt ( có nhiều trường hợp Ung thư vú Ung thư dạ con đã dùng toa này mà không cần các phương pháp trị liệu khác khối u không phát triển nữa và co kết lại)
c) Toa này được thay đổi thành phần 3 tam thất 7 nghệ tán thành bột ngày uống 3 lần mỗi lần 5 gam chiêu với dầu vừng. Đây chính là toa Hắc Hoàng Kỳ Phương dùng trong bệnh Leukemia – Ung thư máu- Bệnh bạch cầu hay là máu trắng
Hãng Dược Liệu Tự Nhiên Tisso có loại thuốc con nhộng cũng được bào chế từ công thức trên giá thành đắt (40 euro/60 viên dùng cho 1 tháng) mà tác dụng không hiệu quả bằng toa tán bột nhất là ở Việt nam thì toa này quá dễ và rất rẽ để sử dụng.
Bạn có thể gõ vào google để đọc thêm về các loại thuốc của hãng này và cách đặt mua loại thuốc tương đương như Hác Hoàng Kỳ Phương này
Trà nấm Linh Chi
Rất đơn giản lấy nấm linh chi phơi khô tán bột nguyên chất mỗi ngày dùng ba tách mỗi lần pha độ một thìa canh đầy bột Linh chi có thể chiết pha nhiều lần nước mà dùng dần.
Nấm cổ linh chi độ 50 năm tuổi thu lượm ở rừng Cúc Phương
Một tai nấm linh chi 3 năm tuổi nuôi trồng công nghiệp từ Hàn Quốc
Giống của Hàn Quốc chính là giống Huyết Linh Chi nhưng chất lượng nuôi trồng công nghiệp rất kém. Còn giống của Cúc Phương là Huyền Linh Chi tuy danh tiếng không bằng Huyết Linh Chi nhưng chất lượng tự nhiên hơn
Bề dày của tai cổ linh chi Cúc Phương đã gần như hóa gỗ nhưng tác dụng điều hòa cực tốt
Tai nấm của Hàn Quốc nhẹ hều xốp không có chất lượng
_________
Mọi thắc mắc về liệu pháp cách ứng dụng và liều dùng đều được tư vấn cặn kẽ qua comment ở topic này
Người thực hiện Lương y Thanh Long Quảng Nhẫn
24.12.10