1- Y Học Lập Trình là gì?
a) Chuyên khoa mới của Y Học: “Tin Học Y Tế” (Medizinische Informatik)
– Định nghĩa:
„Tin Học Y Tế” là khoa học về sự phát triển có hệ thống, trình bày, quản lý, lưu trữ, xử lý và cung cấp dữ liệu, thuật toán, thông tin và kiến thức trong Yhọc và trong hệ thống chăm sóc sức khỏe. Mục đích của nó là giúp hình thành cách chăm sóc sức khỏe tốt nhất như có thể.
Ủy ban Kỹ thuật về Tin học Y tế (FAMI) của Hiệp hội Tin học Y tế, Sinh trắc học và Dịch tễ học Đức e.V. (GMDS) mô tả tin học y tế như sau:
“Thuốc không thể thành hiện thực và có hiệu quả nếu không thu thập và xử lý thông tin một cách toàn diện và cẩn trọng. Ví dụ, tại các bệnh viện, hậu cần thông tin đầy đủ có tác động đáng kể đến chất lượng chăm sóc bệnh nhân. Trình bày đầy đủ và xử lý có hệ thống các phát hiện hình ảnh và dấu hiệu sinh học có thể hỗ trợ các quyết định chẩn đoán và điều trị một cách chính xác.
Việc trình bày một cách có hệ thống kiến thức y tế về chẩn đoán và điều trị bệnh cũng như phát triển cơ sở kiến thức để hỗ trợ Bác sĩ đưa ra quyết định liệu pháp thích hợp cũng rất hữu ích.
Vì mục đích này, “Tin học Y tế” sử dụng các lý thuyết và phương pháp, lập trình và kỹ thuật của khoa học vi tính và các nền khoa học khác và phát triển thành một lĩnh vực biệt. Và sử lập trình này, các nhà khoa học “Tin học Y tế”, mô tả, mô hình hóa, mô phỏng và phân tích thông tin với các phần mềm đặc thù Y khoa các với mục đích:
– Hỗ trợ Bác sĩ, Y tá và Chuyên viên trị liệu cùng các bên liên quan khác trong hệ thống chăm sóc sức khỏe, cũng như cho Bệnh nhân và thân nhân của họ
– Tham khảo để tối ưu hóa quá trình thực hiện phương pháp trị liệu, cung cấp kết quả nghiên cứu và đóng góp những kiến thức mới trong y học và lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Các chuyên gia về “Tin học y tế” thiết kế lập trình các thông tin về hệ thống thông tin và truyền thông, bao gồm cả cơ sở hạ tầng cho các thiết bị y tế, để cung cấp các dữ liệu và thông tin cần thiết, kiến thức cần thiết. Lập trình có thể ghi lại, lưu trữ, truy cập, xử lý và phân phối một cách chuyên nghiệp.
– “Tin học Y tế” hiểu nôm na là hệ thống hóa Kỹ thuật và Xã hội mà phương pháp làm việc của nó phù hợp với các nguyên tắc đạo đức, luật pháp và kinh tế ”.
– Lịch sử phát triển của “Tin học Y tế”:
Vào cuối những năm 1960, thuật ngữ Informatique médicale xuất hiện ở Pháp, do Giáo sư Y khoa Francois Grémy ở Đại học Y khoa Paris đặt ra. Ở Đức, thuật ngữ “Tin học Y tế” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1970 trong một bài báo của Peter Leo Reichertz, Giáo sư tại Trường đại học Y Hannover, trên tạp chí “Phương pháp Thông tin trong Y học”.
Trong học kỳ đầu của niên học mùa đông 1972-1973, khóa học Đại học đầu tiên trên thế giới về “Tin học Y tế” được bắt đầu với sự hợp tác giữa Đại học Heilbronn và Đại học Ruprecht-Karls (Đại học Heidelberg). Năm 1975, sổ tay tài liệu Y tế và xử lý dữ liệu xuất hiện. Trong đó Claus O. Köhler đã tổng hợp một bản tường trình chi tiết về lịch sử phát triển của ngành “Tin học Y tế” ở Đức.
Kể từ đó, “Tin học Y tế” đã có những bước phát triển vượt bậc phù hợp với nhu cầu và năng lực công nghệ ngày càng tăng.
Trong những năm gần đây, Internet nói riêng và đặc biệt là sự xuất hiện của các lĩnh vực ứng dụng y tế điện tử và điện thoại di động, mạnh xã hội…v…v… thì “Tin học Y tế” ngày càng được ứng dụng một cách rộng rãi và khẳng định vị trí vô cùng quan trọng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng
– Các lĩnh vực ứng dụng:
Theo sách giáo khoa Y khoa, mục đích của “Tin học Y tế” được tuyên bố là:
-Trình bày chính xác và diễn giải thông tin phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ, đúng người, đúng ngữ cảnh nhằm hỗ trợ và cải thiện các quyết định và quy trình trong y học và chăm sóc sức khỏe bằng các phương pháp lập trình và ghi chép.
– Lưu trữ, bảo trì, xử lý, thành lập giao diện và trình bày dữ liệu, thông tin và kiến thức.
– Quy trình làm việc của những người làm việc trong hệ thống chăm sóc sức khỏe có thể được hỗ trợ bởi tài liệu hỗ trợ của máy tính trong thông tin của file/ tệp bệnh nhân điện tử. Điều này áp dụng cho chẩn đoán y tế, trị liệu, thanh toán, dịch tễ học và phòng chống dịch bệnh rất chính xác và logic. Điều này cũng góp phần quyết định và đóng góp ngày càng quan trọng của “Chất lượng điều trị”. Bởi vì điều này làm cho cách chuyên viên trực tiếp với việc trị liệu và những người liên quan có tay nghề và bằng cấp không cao cũng có thể hiểu được thông tin chính xác về nguyên tắc trị liệu và có thể kiểm soát được dễ dàng liệu trình.
Để đạt được mục tiêu này, thông tin thường phải được lập trình một cách có hệ thống. Trong một số trường hợp thông tin, tài liệu Y tế sẽ được phân loại trước, để thiết lập thành nhữnglĩnh vực chuyên môn riêng. Với sự trợ giúp của thông tin của lập trình này, có thể được máy tính giải thích và lý giải kịp thời. Cái gọi là “hệ thống” dựa trên tri thức Khoa học có thể được thiết lập để hỗ trợ tích cực cho những người làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
.. Thông tin có cấu trúc lập trình tin học cũng là cơ sở cho việc thành lập “ Hệ thống hồ sơ bệnh án” và cho các tính toán khoa học hoặc kinh tế trong lĩnh vực y tế.
Trong đó “Y tế mạng” (e-health) và việc kê đơn thuốc điện tử hiện đang được phát triển rầm rộ từ lập trình của “Tin học Y tế”
– Các lĩnh vực ứng dụng Y tế đặc biệt liên quan đến “Tin học Y tế” là chuyên khoa “Xử lý hình ảnh”, tức là chẩn đoán bằng cách sử dụng phương pháp chụp cắt lớp vi tính và các phương pháp hình ảnh khác, cũng như xử lý tín hiệu sinh học, ví dụ như trong phòng phẫu thuật và trong phòng chăm sóc đặc biệt.
– Phát hiện hình ảnh bệnh lý để chẩn trị có sự hỗ trợ của máy tính thì các hình ảnh của ảnh X-quang, dễ dàng nhìn thấy hơn để hỗ trợ quá trình chẩn đoán là một lĩnh vực ứng dụng tương đối mới.
– Dựa trên các phương pháp chẩn đoán của lập trình “Tin học Y tế” là một phương pháp hỗ trợ rất tích cực cho bác sĩ trong quá trình can thiệp y tế. Ví dụ dữ liệu hình ảnh y tế được chuẩn bị, xử lý thêm, hoặc kết hợp với dữ liệu đo lường khác để cung cấp thông tin cho Bác sĩ sự hỗ trợ trong việc điều chỉnh các dụng cụ y tế phù hợp. Ví dụ: Sử dụng các phương pháp thực tế ảo hoặc phóng đại…
– Các lĩnh vực ứng dụng khác:
– Ngoài “Tin học Y tế” ra ngày nay còn có các lĩnh vực Tin học tương tự khác cũng được hình thành như các ngành Khoa học mới có liên quan đến hệ thống chăm sóc sức khỏe, ví dụ như “Tin học sinh học”, “Tin học Dinh dưỡng”, “Tin học nha khoa”,”Tin học dịch tể”, “Tin học sinh trắc học”…v.v….
– Đào tạo chuyên khoa:
Từ năm 1972, người ta đã có thể học chuyên nghiệp về “Tin học y tế” ở các nước nói tiếng Đức. Khóa học liên quan đầu tiên là khóa học lấy bằng tốt nghiệp Đại học tại Đại học Heidelberg hợp tác với Đại học Heilbronn. Sau đó đã được nâng cao thành các chương trình sau Đại học là các chương trình đào tạo Tiến sĩ và Thạc sĩ tương ứng. Hiện nay có rất nhiều khóa học về “Tin học y tế” tại các trường đại học và cao đẳng Y khoa trên thế giới. Theo tạp chí Y khoa của Đức thì tính đến thời điểm năm 2018 ở Đức, tổng cộng đã có 25 khóa học về “Tin học y tế” (17 Thạc sĩ, 8 Tiến sĩ) và đã có khoảng 40 khóa học về khoa học máy tính với chuyên ngành “Tin học Y tế” (22 Cử nhân, 18 Thạc sĩ) ở Đức.
Từ năm 2011 đã có một trường dạy nghề riêng về “Tin học y tế” tại Grieskirchen.
Theo đánh giá của giới Khoa học trên thế giới, triển vọng phát triển của chuyên khoa và nghề nghiệp “Tin học Y tế” là tốt đến rất tốt và vô cùng tốt cho nghệ thuật bảo vệ sức khỏe của tương lai..
b) “Đứa con rơi”: “Y Học Lập Trình” (Programiren- Medizin, Lebensleistung Programmieren…).
(Mời xem phần tiếp theo)
29.11.20
Thuận Nghĩa