Cho đến thời điểm này thì Khoa học và Y học cũng chưa tìm ra được loại thuốc nào để tiêu diệt các chủng Virus khi đã xâm nhập và bùng phát ở trong Cơ thể. Liệu pháp dịch tể Vaccine, cũng chỉ là liệu pháp tạo ra kháng thể của Hệ miễn dịch để phòng ngừa lây lan. Nó không phải là thuốc diệt Virus.

Các loại thuốc kháng sinh cơ bản được giải Nobel Y sinh học là

– 1939 Gerhard Domagk được trao giải thưởng vì đã khám phá ra những tác dụng kháng khuẩn của prontosil

– 1945 Alexander Fleming, Ernst Boris Chain, Howard Walter Florey được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra penicillin và những tác dụng chữa trị của nó đối với nhiều bệnh nhiễm trùng.

– 1952 Selman Waksman được trao giải thưởng vì đã tìm ra streptomycin, kháng sinh đầu tiên có tác dụng chống bệnh lao.

Các loại thuốc kháng sinh này vẫn là các loại thuốc kháng sinh nền để sản xuất ra các loại kháng sinh đặc chủng khác. Nhưng tất cả các loại thuốc kháng sinh chỉ có tác dụng với vi trùng (Bakterien), không có tác dụng tiêu diệt Vi khuẩn (Virus)

Hơn 30 đề tài Khoa học trong 110 đề tài Khoa học được trao giải Nobel Y Sinh học từ năm 1902 (Các năm 1915, 1916, 1917, 1918, 1921, 1925, 1940, 1941, 1942 không trao giải). Là các đề tài nghiên cứu về Hệ miễn dịch và các bệnh Truyền nhiễm. (Danh sách ở dưới bài viết).

Vậy mà cả Thế giới vẫn cứ lao đao khiếp đảm khi có một loại Virus lây nhiễm mới hoặc một chủng biến Gene mới. Và lại thêm một trận tốn kém hàng chục tỷ Đô la để tìm một loại Vaccine mới. Virus lại biến chủng. Môi trường thay đổi, ô nhiễm trầm trọng, hệ sinh thái biến đổi theo chiều hướng tiêu cực. Kèm theo sự hoành hại của các loại thuốc hóa dược chú trọng đến lợi ích kinh tế nhiều hơn là lợi ích của việc chữa lành. Hệ miễn dịch tự nhiên của Con người bị phá vỡ trong những tình trạng này.

Tác dụng của Vaccine hay bất kỳ một nghiên cứu Khoa học Y sinh nào về bệnh truyền nhiễm cũng đề cập đến Hệ miễn dịch/ Khả năng đề kháng của Cơ thể. Nhưng tại sao Hệ miễn dịch tự nhiên, Sức đề kháng tự nhiên, khả năng Chữa lành tự nhiên…. vô cùng kỳ diệu của Cơ thể lại không được quan tâm đến. Mà đổ hết sức lực, trí tuệ, tài vật…để chạy theo những triệu chứng của bệnh lý…. rồi cuối cùng cũng lao đao, khiếp đẳm trong thảm họa lây nhiễm…????

Con người cần Khoa học để khám phá Tự nhiên, chinh phục Tự nhiên rồi lại phản bội lại Tự nhiên. Con đường này sẽ dẫn đến sự hủy diệt Sự sống là điều chắc chắn trong một tương lai không xa.

Hệ miễn dịch tự nhiên, Sức đề kháng tự nhiên, khả năng Chữa lành tự nhiên… chỉ có thể được bảo vệ, tăng cường và ổn định bằng các phương pháp Tự nhiên.

Một bằng chứng là cơn đại dịch Corona bùng phát khủng khiếp tại Vũ Hán, chỉ được chữa lành và dập tắt khi chính quyền Trung Quốc kịp thời sử dụng những biện pháp Tự nhiên để tăng cường sức đề kháng, và ổn định Hệ miễn dịch tự nhiên của người bệnh và cộng đồng xã hội. Chỉ có các loại thuốc tăng cường sức đề kháng, và hỗ trợ điều chỉnh, khôi phục Hệ miễn dịch tự nhiên của người bệnh. Hiện tại chưa có loại thuốc nào đặc trị tiêu diệt Covid- 19 cả.

Số người lây nhiễm rất nhiều, nhiều hơn con số thống kê hàng chục lần, hàng trăm lần. Số người bị triệu chứng nặng chiếm tỉ lệ không nhiều. Số người tử vong chiếm đến 99,9 % là số người có bệnh nền, đã từng sử dụng quá nhiều thuốc hóa dược, là những người lớn tuổi… tức là những người mà Hệ miễn dịch tự nhiên/ Sức đề kháng tự nhiên đã bị tàn phá do bệnh tật, thuốc hoá dược và tuổi già, sức lực cùng kiệt, cơ thể đã tàn tạ.

Tỉ lệ tử vong ở người dưới 50 tuổi vô cùng thấp và có thể nói không hề đáng kể. Tỉ lệ tử vong đối với Thanh thiếu niên thì gần như không có. Tại vì sao?. Tại vì Sức đề kháng tự nhiên của họ vẫn còn sung sức, Hệ miễn dịch tự nhiên chưa được phá vỡ. Khả năng tự chữa lành tự nhiên chưa bị tàn phá.

Tỉ lệ tự khỏi bệnh khi bị lây nhiễm mà không có triệu chứng bệnh, cho dù chưa được thống kê, nhưng chắc chắn Khoa học- Y học cũng khẳng định là tỉ lệ đó nhiều hơn rất nhiều lần số người phải nhập viện điều trị.

Lưu ý tỉ lệ tử vong của đại dịch Covid-19 trên toàn Thế giới chưa vượt quá 3%, số ca lây nhiễm. Đối với Việt Nam, tỷ lệ đó là 0%. Tỉ lệ tử vong với nước Đức, nơi được gọi là tâm chấn của Dịch bệnh chưa vượt 1%. Số % khỏi bệnh khi bị lây nhiễm chủ yếu là do tự lành.

Nói dong dài điều này để làm gì. Là để khẳng định điểm mấu chốt để dập tắt cơn đại dịch này là bảo vệ và kích hoạt, tăng cường Hệ miễn dịch tự nhiên, Sức đề kháng tự nhiên của từng cá thể trong cộng đồng xã hội.

Liệu pháp Súc sạch vòm họng (Bằng dung dịch nước muối ưu trương),Thở bụng và Thổi chai qua dung dịch nước muối mà tôi đã chia sẽ. Không những thực hiện được việc làm sạch vòm họng và phần đầu của Hệ hô hấp theo Vệ sinh yếu khuyết của Y học Cổ truyền cũng như Tư vấn Vệ sinh của Y học hiện đại. Động thái này làm giảm thiểu khả năng lây lan của nước bọt và dịch hô hấp rất hiệu quả. Nhất là việc thổi ra trong dung dịch nước muối hoặc dung dịch sát khuẩn.

Nhưng cái đặc biệt của liệu pháp này là thực hiện luyện tập Hơi Thở Bụng. Một liệu pháp cổ truyền làm tăng “Nội lực” của cơ thể mà bất kỳ một môn Dưỡng Sinh nào từ cổ chí kim cũng đều sử dụng. (Tăng Nội lực cũng đồng nghĩa với việc tăng sức Đề kháng tự nhiên, khả năng tự Chữa lành tự nhiên, bảo vệ Hệ miễn dịch tự nhiên. Bảo tồn Năng lực sống tự nhiên.)

Còn vì sao Hơi Thở Bụng lại có tác dụng này, thì mời các bạn đọc tiếp phần tiếp theo với loạt bài viết sau đây:


“NỘI TỨC (HƠI THỞ BÊN TRONG” VÀ BÍ MẬT CỦA SỰ SỐNG”

Phía dưới bài viết có đính kèm Quyết định của Bộ Y Tế Việt Nam về việc phòng chống và ngăn ngừa Đại dịch Covid- 19. Quyết định ra ngày 17.03.2020, gửi cho Các sở Y tế các tỉnh thành trực thuộc Trung ương. Các cục Y tế trực thuộc Trung ương. Các bệnh viện và cơ sở y tế Y học Cổ truyền, Các cơ sở kinh doanh dược liệu….Trong các quyết định bắt buộc các nơi và cộng đồng xã hiện đó, đoạn cuối cùng có khuyến cáo về luyện tập Hơi Thở Bụng rất cụ thể là tập THỞ BỤNG mỗi ngày 4 lần mỗi lần 4-5 phút….

Theo tôi nghĩ. Nếu như các Ban ngành và cộng đồng xã hội thực hiện nghiêm túc Quyết định này. Thì không phải 100%, mà 1000%. Việt Nam sẽ dập tắt được đại dịch một cách nhanh chống. Và sẽ không có một trường hợp tử vong nào trong suốt cả cuộc dịch bệnh này…

Và dưới đây là danh sách các giải thưởng Nobel Y- sinh học có liên quan đến bệnh truyền nhiễm và Hệ miễn dịch tự nhiên và Sức đề kháng cũng như các loại thuốc ngăn ngừa truyền nhiễm, lây nhiễm và viêm nhiễm ở đây. (Danh sách này do tôi tự thống kê, không biết có còn sót giải nữa không.)


1902 Sir Ronald Ross “được trao giải thưởng vì những nghiên cứu của ông về bệnh sốt rét, ông đã tìm ra cách thức các ký sinh trùng thâm nhập và tấn công vào cơ thể, từ đó đặt nền móng cho việc nghiên cứu và cách thức phòng chống bệnh này”

– 1908 Ilya Ilyich Mechnikov, Paul Ehrlich được trao giải thưởng vì những công trình nghiên cứu của họ về hệ miễn dịch.

-1905 Robert Koch được trao giải thưởng vì những khám phá và công trình nghiên cứu của ông về bệnh lao

– 1928 Charles Jules Henri Nicolle được trao giải thưởng vì những công trình nghiên cứu của ông về bệnh sốt chấy rận.

– 1927 Julius Wagner-Jauregg được trao giải thưởng vì đã phát hiện những giá trị của sự nhiễm truyền ký sinh trùng sốt rét trong việc chữa trị chứng liệt.

– 1939 Gerhard Domagk được trao giải thưởng vì đã khám phá ra những tác dụng kháng khuẩn của prontosil

– 1945 Alexander Fleming, Ernst Boris Chain, Howard Walter Florey được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra penicillin và những tác dụng chữa trị của nó đối với nhiều bệnh nhiễm trùng.

– 1951 Max Theiler được trao giải thưởng vì những khám phá về bệnh sốt vàng và cách chống lại căn bệnh này.

– 1952 Selman Waksman được trao giải thưởng vì đã tìm ra streptomycin, kháng sinh đầu tiên có tác dụng chống bệnh lao.

– 1954 John Franklin Enders, Frederick Chapman Robbins, Thomas Huckle Weller được trao giải thưởng vì khám phá của họ về khả nǎng nuôi cấy virus bệnh viêm tủy xám trên nhiều loại mô khác nhau.

– 1958 Joshua Lederberg được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự tái tổ hợp di truyền và sự tổ chức các chết liệu di truyền của vi khuẩn.

– 1960 Frank Macfarlane Burnet, Peter Medawar được trao giải thưởng vì khám phá ra sự dung nạp miễn dịch đạt được.

– 1965 François Jacob. André Lwoff, Jacques Monod được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến các enzym điều khiển di truyền và sự tổng hợp virus.

-1966 Francis Peyton Rous “được trao giải thưởng vì những khám phá của ông về các virus gây ra các khối u.”

– 1969 Max Delbrück, Alfred Hershey
Salvador Luria được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cơ chế sao nhân và cấu trúc gen của các virus.

– 1972 Gerald Edelman, Rodney Robert Porter được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cấu trúc hóa học của các kháng thể.

– 1975 David Baltimore, Renato Dulbecco
Howard Martin Temin được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự tương tác giữa các virus khối u (tumor virus) và vật liệu di truyền của tế bào.

– 1976 Baruch Samuel Blumberg, Daniel Carleton Gajdusek được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến những cơ chế mới về nguồn gốc và sự lây lan của các bệnh nhiễm trùng.

– 1980 Baruj Benacerraf, Jean Dausset
, George Davis Snell được trao giải thưởng cho những khám phá về các cấu trúc xác định di truyền trên bề mặt tế bào có tác dụng điều chỉnh các phản ứng miễn dịch.

– 1984 Niels Kaj Jerne, Georges J. F. Köhler, César Milstein được trao giải thưởng vì đã tìm ra những lý thuyết liên quan đến sự chuyên biệt hóa trong sự phát triển và sự kiểm soát hệ miễn dịch, đồng thời cũng khám phá ra cách thức sản xuất các kháng thể đơn dòng (monclonal antibody).

– 1987 Tonegawa Susumu được trao giải thưởng vì đã khám phá ra các nguyên tắc về di truyền học giúp cơ thể có sự đa dạng hóa trong sự sản sinh ra các kháng thể.

– 1996 Peter C. Doherty, Rolf M. Zinkernagel được trao giải thưởng vì đã khám phá ra sự chuyên biệt hóa trong hệ miễn dịch của tế bào (cách thức hệ miễn dịch nhận dạng các tế bào nhiễm bệnh).

– 1997 Stanley B. Prusiner được trao giải thưởng vì đã phát hiện những hạt protein có tính chất lây truyền, gọi là prion, một tác nhân gây truyền nhiễm mới trong sinh học.

– 2005 Barry Marshall, J. Robin Warren được trao giải thưởng vì khám phá ra vi khuẩn Helicobacter pylori và vai trò của chúng trong bệnh viêm dạ dày và loét dạ dày.

– 2008 Harald zur Hausen được trao giải thưởng vì khám phá ra Virus papilloma ở người (HPV), tác nhân gây ra bệnh ung thư cổ tử cung

– 2011 Ralph M. Steinman được trao giải thưởng cho công trình về tế bào gai và vai trò của nó trong miễn dịch thích ứng

Bruce A. Beutler, Jules A. Hoffmann được trao giải thường vì những nghiên cứu về sự hoạt hóa miễn dịch bẩm sinh

– 2015 William C. Campbell, Satoshi Ōmura, Đồ U U được trao giải thưởng vì nghiên cứu về liệu pháp chữa trị những căn bệnh nguy hiểm do ký sinh trùng gây ra.


– 2018 James P. Allison, Tasuku Honjo vì khám phá của họ về liệu pháp điều trị ung thư bằng ức chế điều hòa hệ miễn dịch âm tính

(Bài viết này cũng để cho các Học viên Bác sĩ đang vận động Bộ Y Tế, dùng làm tư liệu để thuyết phục họ ra quyết định triễn khai liệu pháp như Video đính kèm phía link phía dưới, )

https://www.youtube.com/watch…

25.03.20
L.Y. Lê Thuận Nghĩa

SHARE