Mở đầu cuốn “Huỳnh Hoa Mật Điển” của Đạo tu Tiên thời Thương-Ân thượng cổ bên bên Trung Hoa (1766-1122 Tr.CN) là một câu “chân ngôn” mang tính chất cốt lõi và tổng quan cho toàn bộ thuật trường sinh an lạc của Mật điển tu Tiên. Đó là câu “mật ngữ” này:
“Họa phúc vô môn duy nhân tự triệu
Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình”.
(Nghĩa là: Họa và Phúc vốn không có cửa nào hết, là Họa hay là Phúc đều do chính cá nhân mình tự triệu hồi nó tới mà thôi. Là Thiện hay là Ác thì quả báo cũng như hình và bóng sẽ bám theo mình suốt cả cuộc tồn sinh).

Độ khoảng 1000 năm sau thì có ngài Cồ Đàm bên Ấn Độ, ngồi thiền dưới gốc bồ đề mà ngộ ra chân lý giải thoát cái khổ của kiếp nhân sinh đó là “Khổ nạn do Tâm sinh và Nạn khổ cũng từ Tâm mà diệt. Giáo lý giải thoát cái Khổ nạn của cõi tạm để đi đến cảnh giới Hạnh phúc an lạc vĩnh hằng được ngài Cồ Đàm diễn giải lần đầu tiên cho 5 anh em Trần Kiều Như chính là “Tứ Diệu Đế”. Hàm chứa mang tính chất Chân lý trong Triết học Tứ Diệu Đế là vô song diệu tuyệt nhưng thực ra hàm súc cũng không cách xa mấy câu chân ngôn nói trên của “Huỳnh Hoa Mật Điển”

Vào những năm đầu của Thế kỷ 20, ở phương Tây có ngài Carl Jung ở Thụy Sĩ. Trước đó ngài là một Bác sĩ Tâm lý học nổi tiếng trong Hiệp hội Tâm thần học châu Âu, sau này nhờ tiếp cận với “Huỳnh Hoa Mật Điển” và “Tứ Diệu Đế” mà sáng lập nên một trường phái Tâm lý học hiện đại gọi là Tâm lý học Phân tích (analytical psychology) . Tâm lý học Phân tích là nền tảng của “Tâm lý học trị liệu” sau này của Y học hiện đại. (“Tâm lý học Phân tích”/ Analytical psychology khác với Phân tâm/ Psychoanalysis) của Sigmund Freud).

Nền tảng lý thuyết về Phân tâm học Phân tích của Carl Jung chính là sự phân tích diễn giải về “Vô thức cá nhân” và “Vô thức tập thể”. Và những lý luận diễn giải của Jung cũng dựa vào các “mật ngữ” ở trong “Huỳnh Hoa Mật Điển” và “Tứ Diệu Đế”. Cũng chính vì điều này mà những trước tác viết về Tâm lý học hiện đại của Carl Jung đều mang âm hưởng và màu sắc của Triết học và Văn hóa Á – Đông.

Ở Việt Nam, vào Thế kỷ thứ 14, thời mạt Trần có ngài Thiền sư Đại danh y tên là Nguyễn Tuệ Tĩnh hiệu là Hồng Nghĩa có viết trong trước tác “Hồng Nghĩa Giác Thư” một câu “chân ngôn”, cũng đại diện cho cốt lõi của thuật Dưỡng Sinh, đó là câu:
“Bế tinh, Dưỡng khí, Tồn thần
Thanh tâm, Quả dục, Thủ chân, Luyện hình”

Tuy câu chân ngôn của ngài Tuệ Tĩnh, có tính chất ứng dụng thực tế và ngữ nghĩa sát sao với hiện thực của đời sống. Nhưng về tổng quan của ý nghĩa sinh tồn có chất lượng cao thì cũng chẳng khác gì mật chỉ ở trong “Huỳnh Hoa Mật Điển” và “Tứ Diệu Đế” cả.

Không chỉ có “Huỳnh Hoa Mật Điển”, không chỉ có ngài Cồ Đàm, hay Carl Jung hay cả ngài Tuệ Tĩnh, mà hầu hết các Giáo lý của các Đạo giáo lớn đang hiện hữu trên trái đất này, nếu nghiên cứu kỹ thì cũng tháy nói về Hạnh Phúc viên mãn là quá trình chuyển hóa của tự thân trong hành trình “hành Thiện bài Ác” như ý nghĩa châm ngôn của người Việt cổ: “Tích thiện phùng Thiện, Ác dã Ác báo”…

Lại nói về câu chân ngôn của “Huỳnh Hoa Mật Điển: Họa phúc vô môn duy nhân tự triệu- Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình”

1/ Luận đàm:
“Họa phúc vô môn…” điều này có chắc chắn không nhỉ?.

Xét về cả câu chân ngôn thì đây chỉ là một vế mang tính chất “phương tiện” để khẳng định tính chắc chắn của vế sau là “duy nhân tự triệu”. Nghĩa là không có cánh của nào phân biệt là “Cửa họa” hay “Cửa phúc” cả, để mà “ngồi không” để há miệng ra chờ sẵn mà “ngáp” lấy quả vị sung sướng. Chỉ có hành trình, cấp độ của tu thân, chuyển hóa tự thân (chuyển nghiệp) mới tự rước lấy Họa hay Phúc mà thôi (Tự mình quyết định họa phúc cho chính mình).

Xét về khía cạnh “căn cơ” chắc sẽ có “cửa Họa” hay “cửa Phúc” đấy. Ví dụ, trong Y thuật và thuật Dưỡng sinh có nói “Sinh mệnh của cá thể là do tinh Cha, huyết Mẹ và khí hóa của Tiên thiên tạo thành”. Hoặc trong chân ngôn lập gia của xã hội xưa có câu “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”…v…v… Trong những câu giáo huấn đó của người xưa có nhắc đến “căn cơ” cũng hàm chứ là có “cửa” của Họa-Phúc đấy chứ.

Ngày nay Y học hiện đại cũng đã xác định, chứng minh được sự Truyền thừa thế hệ, căn cơ của Họa-Phúc… thông qua các mã Di truyền của cấu trúc ADN của Nhiễm sắc thể. Như vậy thì cho dù “Duy nhân tự triệu” thì Họa-Phúc nhiều ít cũng có “Hữu Môn” đấy chứ nhỉ!!!

Diễn giải và trích dẫn “tào lao chi khươn” dài dòng như vậy để nhắc nhở rằng cho dù Họa- Phúc là do chính “Duy nhân tự triệu”, nhưng đừng quá “coi thường” sự tồn tại cửa (Hữu Môn) của Họa và Phúc. Ví dụ các loại bệnh tật như Ung thư, các hội chứng về bệnh Tim mạch, bệnh Suy thận, các hội chứng về bệnh Trầm cảm, các hội chứng về bệnh đãng trí của người già…v..v… đều có yếu tố Di truyền rất rõ nét (Hữu Môn).

2- Luận kết:
Vì vậy, đối với những người có mã di truyền (Người nhà) nhạy cảm với các hội chứng Ung thư, suy Tim, suy Thận, Trầm cảm… thì cần phải có sự cố gắng của việc tu thân: “Bế tinh, Dưỡng khí, Tồn thần- Thanh tâm, Quả dục, Thủ chân, Luyện hình” rốt ráo hơn, và phải tích Thiện, phùng Thiện… nhiều hơn các người khác thì hạnh phúc và sự an lành, khỏe mạnh… mới có thể “Duy nhân tự triệu” một cách có hiệu quả được!!!

19.03.23
Thuận Nghĩa

SHARE